Học thuyết tạng phủ: Tạng thận

Học thuyết tạng phủ: Tạng thận

1. Chức năng của thận:   

Thận thuộc thủy, nhận lấy âm tinh của ngũ tạng lục phủ mà tàng giữ lấy, là gốc của các tạng. Lại coi về tướng hoả, thứ hoả vô hình này đi khắp các tạng phủ mà không ngừng. Cho nên là tạng của thủy hoả. Thận tàng tinh chủ việc sinh dục, là gốc của tiên thiên, là rễ của cơ thể sinh trưởng phát dục. Lại chủ việc nạp khí, thận khí thịnh thì khoẻ, thận khí suy thì bệnh. Đường kinh mạch là từ chân đi lên đùi đi suốt xương sống. Vì trong thận là tàng trữ chân âm có cả chân dương, âm dương phối nhau, thủy hoả hỗ trợ nhau, nên tàng mà không tiết. Cho nên bệnh thận phần nhiều là bệnh hư.

1.1. Thận tàng tinh, chủ sinh dục và phát dục của cơ thể:

– Tinh của tiên thiên và hậu thiên đều được tàng trữ ở thận gọi là thận tinh. Tinh biến thành khí cho nên còn có thận khí. Thận tinh còn gọi là thận âm, thận thủy, nguyên âm, chân âm. Thận khí còn gọi là thận dương, thận hoả, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hoả.

– Thận tinh và thận khí quyết định sự phát dục và sinh dục của cơ thể từ lúc nhỏ đên lúc già, như việc mọc răng, dậy thì, sinh sản, lão suy, cho nên nói thận là gốc của tiên thiên. Sách Nội kinh nói: “Con gái 7 tuổi thì thận khí thịnh răng thay, tóc dài, 14 tuổi thì thiên quý đến mạch nhâm thông với mạch xung cho nên thấy kinh. Khi được 7 thiên quý (7×7=49 tuổi) thì mạch nhâm yếu, mạch xung kém thiên quý cạn hết nên kinh nguyệt không còn, cơ thể yếu đuối. Con trai 8 tuổi thận khí thực thì tóc tốt, thay răng; 16 tuổi thì thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy; 24 tuổi thận khí điều hoà, thân thể cường tráng; 64 tuổi (8 thiên quý) thì thận khí suy kém tóc rụng, răng rụng, cơ thể suy yếu”. Trẻ con sau khi sinh thể chất mềm yếu, là thuộc thận hư, là tiên thiên không đủ. Ngoài ra như nam nữ có bệnh về sinh dục như liệt dương, tinh lạnh, di tinh, hoạt tinh, hành kinh trái thường, không có con, và phát dục không tốt cũng đều là bệnh thận.

– Thận âm và thận dương nương tựa vào nhau, chế ước lẫn nhaugiữ thế quân bình âm dương. Nếu thận hư mà không có hiện tượng hàn nhiệt thì gọi là thận tinh hư hay thận khí hư. Nếu có hiện tượng hư nhiệt (nội nhiệt) là do thận âm hư hay thận thủy hư, nếu có hiện tượng ngoại hàn là do thận dương hư hay thận hoả hư.

1.2. Thận chủ khí hoá nước:

Thận khí có chức năng khí hoá nước, tức là đem nước do đồ ăn uống đưa tới tưới cho các tổ chức cơ thể và bài tiết nước ra ngoài.

Sự đại tạ nước trong cơ thể do 3 tạng đảm nhiệm: Tỳ vận hoá thủy thấp, phế thông điều thủy đạo và thận khí hoá nước. Nước vào vị được tỳ vận hoá hấp thu đưa lên phế, phế túc giáng xuống thận, thận khi hoá nước đưa các chất trong trở lại phế để đi phân bố tàn thân, đồng thời đẩy chất đục xuốn bàng quang để thải ra ngoài.

1.3. Thận chủ nạp khí:

Không khí do phế hít vào được giữ lại ở thận gọi là thận nạp khí. Nếu thận hư không nạp được phế khí thì làm phế khí nghịch lên gây chứng ho hen, khó thở. Trên lâm sàng chữa chứng ho xuyễn ở người già bằng pháp bổ thận nạp khí.

1.4. Thận coi về hai đường đại tiểu tiện (nhị tiện):

– Tiền âm là nơi bài tiết nước tiểu, bộ phận sinh dục. Thận chủ khí hoá và bài nước tiểu và sự sinh dục nên gọi thận chủ tiền âm. Thận hư hay gặp chứng đi tiểu luôn về ban đêm ở người già, đái dầm ở trẻ em, di tinh, mộng tinh ở nam giới, ra khí hư ở phụ nữ…

– Hậu âm là nơi đại tiện do tạng tỳ đảm nhiệm, nhưng tỳ dương được thận khí hoá để bài tiết phân nên còn gọi thận chủ hậu âm. Nếu thận khí hư hay gặp chứng đại tiện lỏng hoặc táo ở người già.

– Hậu âm và tiền âm là đại tiện và tiểu tiện nên thận chủ về nhị tiện.

2. Thận quan hệ với các tổ chức khí quan khác:

Thận chủ về xương, sinh tuỷ, làm đầy cho não, thận khai khiếu ở tai, tươi tốt ở tóc, eo lưng là phủ của thận:

2.1. Thận chủ xương tuỷ, thông lên não:

– Thận tàng tinh mà tinh lại sinh tuỷ, tuỷ ở trong xương để nuôi dưỡng xương cho nên gọi là thận chủ cốt sinh tuỷ. Nếu thận hư, sự phát dục của cơ thể giảm sút gây hiện tượng chậm mọc răng, xương mềm, chậm biết đi.

– Răng là phần thừa của xương, bệnh thận thì răng đau, răng khô, răng sâu.

– Tuỷ ở cột sống thông lên não, thận sinh tuỷ nên gọi là thận thông với não, không ngừng bổ sung tuỷ cho não. Nếu thận hư (thường do tiên thiên) làm não chậm phát triển gây ra hiện tượng thiểu năng trí tuệ, đần độn, kém thông minh. Não là bể của tuỷ, bể tuỷ không đủ thì đầu choáng váng vù vù, không tỉnh táo, hay quên. 

2.2. Thận khai khiếu ở tai: 

Tai là do thận tinh nuôi dưỡng. Nên thận hư thì tai vù, tai điếc. ở người già thận khí, thận tinh suy yếu hay gặp chứng ù tai, điếc.

2.3. Thận vinh nhuận ở tóc: 

Thận tàng tinh, tinh sinh huyết, tóc là phần thừa ra của huyết được huyết nuôi dưỡng vì vậy thận là căn nguyên sinh ra tóc. Sự thịnh suy của thận quan hệ mật thiết với tóc. Như bẩm sinh thận khí kém thì tóc thưa thớt, thanh niên thiên quý thịnh thì tóc tươi tốt, người già thận khí suy thì tóc bạc… vì vậy nói thận vinh nhuận ra tóc.

2.4. Eo lưng là phủ của thận:

Thận âm hư thì eo lưng mỏi đau, thận dương hư thì eo lưng sống lưng lạnh đau.

3. Thận liên quan đến các tạng phủ khác:

Thận với bàng quang là biểu lý. Tương sinh với can phế. Tương khắc với tâm tỳ.

3.1. Biểu lý với bàng quang:

Bàng quang có chức năng chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoá và sự phối hợp với tạng thận. Thận khí không đủ, khí hoá không kịp thời thì tiểu tiện không lợi.

3.2. Thận tương sinh với can phế:

– Thủy không sinh mộc: thì trước có chứng thận âm hư, sau đó xuất hiện chứng can âm huyết không đủ gọi là chứng can thận âm hư..

– Kim không sinh thủy: Trước có chứng phế hư, sau có chứng thận hư gọi là chứng phế thận âm hư.

3.3. Thận tương khắc với tâm tỳ:

– Thủy khắc hoả: trước có chứng thận hàn, sau xuất hiện chứng tâm dương hư thành chứng tâm thận dương hư.

– Thổ khắc thủy: Trước có bệnh của tỳ. Sau xuất hiện chứng thận hư.

4. Các triệu chứng bệnh thận và bàng quang:

4.1. Triệu chứng bệnh thận:

Thực: bồn chồn, cường dương không mềm ra.

Hư: đau lưng, mỏi gối, liệt dương, ù điếc tai, di tinh, tóc bạc.

Nhiệt: đái ít, đỏ, đái máu, ỉa táo, chảy máu chân răng.

Hàn: ngũ canh tả, nằm co, sợ lạnh chi lạnh, tinh lạnh.

4.2. Chứng trạng của bàng quang:

Thực: đái khó, bụng dưới căng đau.

Hư: són đái, đái dầm.

Nhiệt: ống đái nóng, đái khó,ít, cuồng.

Hàn: nước đái trong dài và lạnh, hay hắt xì hơi.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*