Học thuyết tạng phủ: Tạng phế

Học thuyết tạng phủ: Tạng phế

1. Chức năng của phế:

Phế ở trong ngực, chủ việc tuyên phát, túc giáng, ngoài chủ bì mao, khai khiếu ở mũi, trên liền với cuống họng, là nguồn trên của dòng nước. Đường kinh mạch bắt đầu ở trung tiêu, từ cuống phổi đi ngang ra dưới nách, theo cánh tay ra đầu chót ngón tay cái. Cùng biểu lý với đại trường.

1.1. Phế chủ khí, chủ hô hấp:

– Phế là nơi trao đổi khí: hít thanh khí, thải trọc khí nên phế chủ hô hấp.

– Phế chủ khí vì phế có liên quan đến tông khí, tông khí được tạo thành do khí của đồ ăn từ tỳ vị đưa lên hợp với khí trời do phế đưa vào, tông khí được đưa vào tâm mạch để đẩy huyết đi toàn thân nuôi dưỡng cơ thể.

– Phế khí bình thường thì hô hấp thông, hít thở bình thường. Phế khí hư thì thở ngắn, gấp, tiếng phát ra nhỏ yếu, khí úng thì làm cho xuyễn thở, ngực tức hoặc đau, khí nghịch thì sinh ho, nặng thì đứt lạc ho ra máu.

1.2. Phế chủ tuyên phát và túc giáng:

– Tuyên phát: có nghĩa là thúc đẩy. Sự tuyên phát của phế (gọi tắt là tuyên phế) là sự thúc đẩy khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ kinh lạc, ngoài đi ra bì mao cơ nhục. Nếu phế khí không tuyên sẽ gây ứ trệ và có triệu chứng tức ngực, ngạt mũi, khó thở.

– Túc giáng: là đưa phế khí đi xuống (thuận). Nếu phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có triệu chứng khó thở, ho, xuyễn tức.

1.3. Phế chủ bì mao:

Bì mao là phần ngoài, nơi ngoại tà xâm nhập vào cơ thể. Nhờ sự tuyên phát của phế mà chất dinh dưỡng được đem đến cho bì mao. Vệ khí cũng tuyên phát ra bì mao để chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất hiện các triệu chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau. Diệp Quế có nói: “Vị trí phế ở cao nhất, tà tất hại phế trước”, “ôn tà vào phần trên, đầu tiên là vào phế”. Cho nên ngoại cảm tà lục dâm thường trước là phạm vào phế, nhân đó mà xuất hiện chứng ngoại cảm. Nếu phế khí hư yếu không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô ráp, lưa thưa, dẫn tới cơ năng bảo vệ của bì mao bị giảm cho nên dễ bị cảm ngoại tà.

1.4. Phế chủ thông điều thủy đạo:

Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng của phế mà nước trong cơ thể được bài tiết bằng đường mồ hôi, hơi thở, nhị tiện nhưng chủ yếu bằng đường nước tiểu. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, ở thận nước tiểu được khí hoá 1 phần đưa xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài. Phế khí không tuyên thông thì tiểu tiện không lợi. Trên lâm sàng bệnh phù thũng do phong thủy (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu.

1.5. Đường kinh:

Đường kinh mạch bắt đầu ở trung tiêu, từ cuống phổi đi ngang ra dưới nách, theo cánh tay ra đầu chót ngón tay cái. Khi bị bệnh có thể xuất hiện trong khuyết bồn đau, bả vai và cánh tay đau.

2. Quan hệ của phế với các tổ chức khí quan:

Phế khai khiếu ở mũi, hầu là cùng với phế. Cho nên phế bị bệnh có biểu hiện  sau:

2.1. Phế khai khiếu ở mũi:

Mũi là nơi thở của phế. Nếu phế khí bị trở ngại như cảm ngoại tà xâm nhập thì ngạt mũi, chảy nước mũi, cánh mũi phập phồng, nước mũi thối chảy ra.

2.2. Họng là giây phổi:

Phế thông với họng, chủ tiếng nói. Phế hư thì mất tiếng, bị hàn thì họng ngứa tiếng khàn; bị nhiệt thì họng đau, họng sưng; đàm trở thì họng như kéo cưa, hen xuyễn.

3. Sự liên hệ của phế với các tạng phủ:

Phế với đại trường là biểu lý, với tỳ thận là tương sinh, với tâm can là tương khắc.

3.1. Với đại trường là biểu lý:

Đại trường có chức năng chứa đựng và bài tiết chất cặn bã của đồ ăn. Nếu phế tân không phân bố được thì đại tiện khó đi.

3.2. Tương sinh với tỳ thận:

– Thổ không sinh kim : thì trước có chứng tỳ vị hư nhược, sau xuất hiện chứng phế hư

– Kim không sinh thủy: thì trước có chứng phế hư, sau có chứng thận âm không đủ.

3.3. Tương khắc với tâm can

– Kim khắc mộc: trước có chứng phế thực, sau có chứng can khí uất trệ

– Hoả khắc kim: trước có chứng can hoả bốc lên, rồi sau xuất hiện chứng phế nhiệt, đó gọi là “mộc hoả hình kim”.

Khi phế có bệnh thường thấy nóng rét với ho xuyễn làm chủ chứng như điều 16 sách Nạn kinh nói: “Bệnh thì xuyễn ho, rét run, nóng rét, có như thế là bệnh phế, không như thế là không phải”.

4. Các triệu chứng bệnh của phế và đại trường:

4.1. Triệu chứng bệnh của phế:

Thực: Đầy tức ngực, khó thở gấp, ho đờm đặc, ho mủ.

Hư: Thở yếu, tiếng nói nhỏ, da khô, sợ lạnh, ra mồ hôi (khí hư). Hoặc triều nhiệt, đạo hãn, ho máu (âm hư).

Nhiệt: sốt cao, cánh mũi phập phồng, mắt đỏ, họng đau, ho máu.

Hàn: sợ lạnh, chảy nước mũi, ho, khó thở, đờm loãng.

4.2. Chứng trạng bệnh đại trường:

Thực: ỉa khó, đau bụng cự án, trường ung.

Hư: ỉa khó (huyết hư); lòi dom, ỉa dễ, phân tự ra (khí hư).

Nhiệt: mồm khô, lưỡi khô, phân táo kết, hậu môm nóng, phân nóng thối khẳm.

Hàn: đau bụng, sôi bụng, ỉa lỏng.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*