Điều trị cường chức năng tuyến giáp – Thiên gia diệu phương

TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP

– Biện chứng đông y: Can uất khí kết, âm hư hỏa vượng.

– Cách trị: Dưỡng âm giải uất nhuyễn kiên tán kết.

– Đơn thuốc: Dục âm thang gia giảm.

– Công thức:

 Liêu sa sâm            15g  Thiên đông              15g
 Mạch đông              15g  Sinh địa                  15g
 Hoa phấn                15g  Côn bố                   15g
 Hải tảo                   15g  Ngũ bội tử              10g
 Đại bốc                  10g

Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu bướu tuyến giáp sưng to thì thêm Hải phù thạch 15g; chân tay run rẩy thì thêm Long cốt, Mẫu lệ mỗi vị 15g, với người thèm ǎn, hay đó thì thêm Nguyên sâm 15g, Sinh địa tǎng lên 30g: với người miệng khát thì thêm Ô mai, Thạch hộc mỗi thứ 15g; người đại tiện nhiều lần thì thêm Sinh sơn dược 30g, với người khí hư thì thêm Thái tử sâm 15-30g; với người liệt dương thì thêm Dâm dương hoắc 15g; với người can uất hoá nhiệt thì thêm Hạ khô thảo 15g.

– Hiệu quả lâm sàng: Đã điều trị 34 trường hợp, khỏi hẳn 18 ca, khỏi một phần 13 ca, còn 3 ca không có kết quả. Thời X X, nữ, 34 tuổi, phục vụ viên, tới khám ngày 15-9-1976. Tự kể bệnh: bực bội, ra nhiều mồ hôi đã 4 nǎm nay, đồng thời có cảm giác cổ to lên, ngực tức, tim đập hồi hộp, gầy đi, tay run, ǎn nhiều và thèm ǎn, mỗi ngày ǎn tới hơn 0,5 kg đồ ǎn, đại tiện lỏng, mỗi ngày 3 lần. Khám thấy Bướu cổ độ II, nhãn cầu lồi ra, tim đập 106 lần/phút, có tạp âm độ 1 thời kỳ tâm thu ở mỏm tim, mạch tế sác, lưỡi nhạt rêu mỏng trắng. Ngày 16-8-1976 đã đo lượng hấp thụ iốt 131 = 2 giờ 47,7%, 4 giờ 61,5%, 24 giờ 88%, thử ngiệm hệ số ức chế iôt: 2 giờ 9,4%, 4 giờ 8,3%, 24 giờ 6,9%, chẩn đoán là “tǎng nǎng tuyến giáp”, thuộc về chứng can, uất khí kết, kèm âm hư, cần trị bằng phép dưỡng âm giải uất nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài thuốc trên, thêm Nguyên sâm, Hải phù thạch, Sinh long cốt, Sinh mẫu lệ, Thạch hộc, mỗi vị 15g, Cát cánh 9g. Uống tất cả 24 thang, ngày 9-12-1976 khám lại các triệu chứng bực bội tim hồi hộp đã lui, hết ra mồ hôi, hết run tay đại tiện mỗi ngày 1 lần, nhưng nhãn cầu vẫn còn lồi ra, tuy có giảm bớt, tuyến giáp còn phù, bướu độ 1, mạch trầm tế (nhịp tim 80 lần/phút), lưỡi nhạt, rêu trắng bẩn. Ngừng thuốc, sau 20 ngày khám lại, đo lượng hấp thụ iốt 131 2 giờ 11,4%, 4 giờ 16,7%, 24 giờ 5,8%, đều trong phạm vi bình thường. Nghe tim: đã hết tạp âm ở mỏm tim. Lại cho dùng tiếp 10 thang thuốc trên, thêm Thái tử sâm 30g, để củng cố kết quả điều trị.

 

30. TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP

– Biện chứng đông y: Âm hư hỏa vượng, đờm nhiệt uất tất, thấu lý bất cổ.

– Cách trị: Tư âm tả hỏa, ích khí tán kết.

– Đơn thuốc: Đương qui lục hoàng thang hợp với Tiêu luy hoàn gia giảm.

– Công thức:

 Đương quy              9g  Hoàng bá                 6g
 Hoàng kỳ               15g  Triết bối mẫu            9g
 Sinh mẫu lệ           30g  Toan táo nhân        15g
 Phù tiểu mạch       30g

Sắc uống mỗi ngày 1 thang, uống 1-3 tháng, sau khi hết các chứng thì có thể dùng thuốc trên nhiều lần chế thành hoàn mỗi ngày 18g, chia làm 2-3 lần để củng cố tác dụng.

– Hiệu quả lâm sàng: Dùng bài thuốc này để trị bệnh cường tuyến giáp có hiệu quả tốt theo dõi toàn diện 8 ca, trong 3 tháng tất cả các triệu chứng đều mất, chuyển hóa cơ bản phục hồi như thường 5 ca, các triệu chứng đều giảm rõ rệt 2 ca, vô hiệu 1 ca.

 

31. TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP

– Biện chứng đông y: Khí âm hư kiêm đờm kết.

– Cách trị: ích khí dưỡng âm, trừ đờm tán kết.

– Đơn thuốc: Gia vị sinh mạch tán phương.

– Công thức:

 Đảng sâm               9g  Mạch đông              9g
 Ngũ vị tử                 6g  Huyền sâm            12g
 Viễn chí                  9g  Quất hồng               9g
 Sinh mẫu lệ           24g  Côn bố                  12g
 Hải tảo                   9g  Sài hồ                     3g
 Miết giáp              12g
(sắc trước)

Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia làm 3 lần.

– Hiệu quả lâm sàng: Lư XX, nữ, 25 tuổi, chưa chồng, công nhân. Khoảng tháng 6-1976 bệnh nhân phát hiện cổ sưng, mắt lồi, cảm thấy đầu váng, có lúc tim đập hồi hộp, bức bối ra mồ hôi, run tay, ǎn nhiều mà chóng đói. Bệnh viện địa phương đã chẩn đoán cường tuyến giáp trạng, đã dùng methyl, tác dụng không tốt lắm. Tim đập 120-143 lần phút, thân nhiệt duy trì khoảng 37,8-38,2oC, huyết áp ổn định, ở 140/80mmHg. Đầu tháng 11 xác định chuyển hóa cơ bản: + 64%, nguyên đán nǎm sau làm thí nghiệm hấp thu iốt phóng xạ (I131) thì thấy 2 giờ 41,5%, 3 giờ 49,5%, 24 giờ 59%, (1), đến xin điều trị. Chẩn mạch tế sác, lưỡi đỏ ít rêu. Xem xét kỹ các chứng, cổ sưng, mắt lồi là đờm kết, tim đập hồi hộp, bực bội, nhiều mồ hôi, mạch tế sác đều là chứng của khí âm bất túc. Theo chứng mà luận ra thì phải ích khí dưỡng âm thêm trừ đờm tán kết, dùng bài “Gia vị sinh mạch tán”. Uống liền 20 thang thì bướu cổ giảm rõ rệt, các chứng khác cũng mất. Đo nhịp tim, thân nhiệt, huyết áp thấy trở lại bình thường. Cho ngừng thuốc đáng lẽ lại đo hấp thu iốt (I131) nhưng bệnh nhân về nhà nghỉ phép. Tháng sau gửi thư đến cho biết bệnh viện làm chuyển hóa cơ bản thấy: + 9%, theo dõi 3 nǎm nữa, bệnh không tái phát.

 

32. TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP

– Biện chứng đông y: Khí kết không thư.

– Cách trị: Nhuyễn kiên tán kết, sơ cang giải uất, dưỡng huyếthòa huyết.

– Đơn thuốc: Bình phục ẩm (gia vị).

– Công thức:

 Sinh mẫu lệ             20g  Côn bố                    25g
 Hải tảo                    25g  Hạ khô thảo            25g
 Đương qui              15g  Bạch thược            20g
 Sài hồ                    15g  Hương phụ             15g

Sắc uống mỗi ngày 1 thang.

– Hiệu quả lâm sàng: Thượng XX, nữ, 44 tuổi, giáo viên. Sơ chẩn ngày 5-10-1976. Hay đói, gầy sút đã 3 tháng, mỗi ngày ǎn 1,5kg lương thực, thể trọng từ 75kg xuống còn 52kg, cau có, gắt gỏng, nóng nảy buồn bực, thích uống lạnh, đi ngoài phân lỏng có ngày 5-6 lần, ra mồ hôi, tim đập hồi hộp, thở ngắn, phía trước cổ hơi to. Tiểu tiện, kinh nguyệt bình thường. Đã được 1 bệnh viện chẩn đoán chính xác là bệnh cường tuyến giáp trạng, đã từng uống thuốc tây (diazolin) nhưng ít công hiệu. Lưỡi đỏ nhạt, không có rêu, mạch trầm huyền hơi tế. Cho uống ‘Bình phục ẩm’ thêm Đảng sâm 20g, Phục linh 20g, Quất hồng 25g, Đại bối 15g. Khám lần thứ hai 20-10-1976. Uống đơn trên10 thang, các chứng chuyển biến tốt. Lưỡi đỏ nhạt, không có rêu, mạch trầm huyền sáp. Vẫn dùng “Bình phục ẩm’’ thêm Đan sâm 20g, Nhũ hương 10g, Mộc dược 10g. Khám lần thứ ba: 15-11-1976. Uống đơn trên 15 thang, các triệu chứng giảm nhiều, thể trọng tǎng dần, tinh thần khá lên, lưỡi và mạch như trước. Vẫn dùng bài thuốc đó. Khám lần thứ tư: 25-11-1976, bệnh lui 7-8 phần, ǎn ít đi, mỗi ngày 0,250kg. Đại tiện hơi lỏng, có khi mỗi ngày 2 lần, lưỡi đỏ nhạt, rêu trắng mỏng, mạch huyền hoãn, uống đơn trên 15 thang. Khám lần thứ nǎm; 21-12-1976, gần đây đau họng, tự ra mồ hôi, không có khó chịu gì, ǎn chừng 0,500kg, đại tiện bình thường, lưỡi đỏ, mạch tế sác. Dùng thêm phép tư âm thanh nhiệt. Lấy đơn trên thêm Nữ trinh tử 15g, Hạ liên thảo 20g, Phù tiểu mạch 20g, Xạ can 15g, Sơn đậu cǎn 15g. Dùng 20 thang thì khỏi.

 

33. TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP

– Biện chứng đông y: Đờm kết ở vùng cổ, đờm hỏa quấy rối bên trong.

– Cách trị: Thanh nhiệt hóa đờm.

– Đơn thuốc: Nhị trần thang gia vị.

– Công thức:

 Thanh bán hạ           15g  Vân phục linh          12g
 Trần bì                     10g  Long đờm thảo        12g
 Côn bố                    15g  Hải tảo                    15g
 Bạch giới tử              3g  Sinh cam thảo           6g

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

– Hiệu quả lâm sàng: Đơn thuốc trên mỗi ngày một thang, 30 ngày là một liệu trình, đã điều trị 10 ca, nhanh nhất một liệu trình, lâu nhất 3 liệu trình, toàn bộ các triệu chứng lâm sàng đều hết, chuyển hóa cơ bản trở lại bình thường. lý XX, nữ, 30 tuổi, nhân viên bệnh viện, chẩn bệnh ngày 26-10-1978. Tim đập hồi hộp, yếu mệt tự ra mồ hôi, dễ nóng nảy, chóng đói, gày còm, mắt hơi lồi, tay run, tuyến giáp hơi sưng to, nhịp tim 88-92 lần/ phút. Bệnh viện chẩn đoán “bệnh cường tuyến giáp trạng”. Chuyển hóa cơ bản +80-100%. Đã từng uống Metylthiouracil…, lúc uống lúc ngừng đến nǎm 1977, hiệu quả không rõ. Cǎn cứ vào tứ chẩn, bệnh này thuộc “đờm ảnh” (bướu đờm) của đông y, tức là đờm hỏa kết ở cổ nên cổ to ra, hỏa bốc lên mắt làm cho lồi mắt, đờm hỏa quất rối bên trong nên dễ cáu gắt, dễ đói, gầy rạc. Nên dùng phép thanh nhiệt hóa đờm uống “Nhị trần thang gia vị”, hơn 3 tháng sau các triệu chứng lâm sàng đều hết, chuyển hóa cơ bản bình thường, trở lại công tác 1 nǎm chưa tái phát.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*