Chứng phong đàm

I Khái niệm

Chứng Phong đàm có hai thể: Một là Can phong’hiệp đàm quấy rối thanh khiếu ở trên hoặc phong đàm len lỏi vào đường Lạc, kinh mạch không được nuôi dưỡng nên biểu hiện một loạt chứng trạng về đàm thịnh động phong; thể này thuộc phạm trù nội thứơng, phần nhiều do Tỳ hứ sinh đàm, đàm theo phong nià động gây nên. Hai là phong đàm phạm vào đưòng Lạc, miệng mát méo xếch là loậi ngoại cảm phong tà, phong với đàm câu kết gâỵ nên bệnh. Trênlẫmi sàng cũng đem loại biểu chứng khái nghịch đàm suyễn gọi là phong đàm, nhưng không nằm trong thể bệnh giớĩ thiệu ở đây •

Biểu hiện chủ yếu của chứng phong đàm là trong họng có tiếng đờm khò khè, lợm lòng nôn mửả, mửa ra đờiii râi trong loãng và có rihiêu bọt, ngực sườn đầy tữc, đầu choáng mắt hòà, chần tay tê dại thậm chí ngă lăn đội ngột, thần trí hôn mê, lưỡi cứng không nói được, co giật kính quyết, hoặc miệng mát mẻo xếch, bán thân bất toại, rêu lưỡi dày nhớt, tnạch Huyền Hoạt.

Chứng này thường gập trong các bệnh Huyễn vậng, Trúng phong và chứng Giản.

Cần chắn đoán phân biệt với chứng Nhiệt đàm, chứng Huyết ứ.

Phân tích

Chứng Phong đàm đẽu có biểu hiện đàm thịnh mà động phong, nhưng xuất hiện trong các tật bệnh khác nhau nên cũng có đặc điểm riêng.

Trong chứng Huyễn vậng xuất hiện chứng phong đàm, triệu chứng đặc trưng 1* đầu choáng váng quay tròn, tai ù hoa mát, mửa ra đàm rãi, nguyên nhân phần nhiều do phong đàm quấy rối ở trên, Can mộc lấn VỊ, Vị khí nghịch lên gây nên, cho uống bài Bán hạ bạch truật thiên ma thang (Y học tăm ngộ).

Chứng Phong đàm trong bệnh Trúng phong lại có hai thể khác nhau như phong đàm ngần trở đường Lạc và phong đàm vít lấp khiếu: Chứng phong đàm ngãn trở đưòng Lạc phần nhỉều do ngoại phong dản động nội phong, phong đàm len lỏi vào kinh lạc, làm khí huyết uãt trệ gây nên, biểu hiện chủ yếu là miệng méọ mắt xẽch, chân tay tê dại, thậm chí bán thân bất toại; điều trị nên khư phong hđa đàm, sơ thông kinh lạc, cho uổng bài Khiên chính tán (Dương thị gia tàng^phương) hoặc Dại Tần giao thang (Y học phát minh). Chứng phong đàm vít lấp khiếu phần nhiều do dương cang hóa phong, phong đàm úng tác ở trên che lấp thanh khiếu gây nên bệnh, biểu hiện chủ yếu là đột ngột ngã lăn bất tỉnh nhân sự, lưỡi cứng không nói dược, trong họng có tiếng đờm khò khè, khóe miệng chẩy rải v.v. điều trị cần quét đàm khai khiếu, cho uống bài Địch đàm thạng (Kỳ hiệu lương phương) gia giảm. .

Chứng Phong đàm ngăn trở đường Lạc tức ỉà ỉoại phong trúng kinh , lạc của bệnh Trúng phong, không trở ngại gì đến thần trí, bệnh tình nói chung nhẹ. Chứng Phong đàm vít lấp khiếu tức ỉà loại phong trúng Tạng phủ của bệnh Trúng phong nổi chung, xuất hiện thần chí hôn mê, nổi năng khđ khăn, bệnh tình nđi chung khá nghiêm trọng.

Chứng phong đàm trong Giản bệnh ỉà do phong đàm quấy rối ở trên, tâirí thần bị che lấp gây tíên, đây là loại tật bệnh phát sinh từng cơn, biểu hiện chủ yếu khi phát cơn là ngã lăn đột “ngột, bất tỉnh nhân sự, mửa ra bọt rãi, mắt trực thị, chân tay co giật, trong miệng phát ra tiếng dê lợn kêu, chổc lát lại tỉnh, vả lại phát cơn thông thường, không di chúng; điều trị theo phép qụét đờm dẹp phong, khai khiếu – định giản, cho uống bài Định giản hoàn (Y học tăm ngộ) gia giảm.

Chứng Phóng đàm phần nhiều gặp ở người Can Thận âm khuy, Can dương quá găng và thể trạng béo mập đàm thịnh. Can dương hóa phong, đàm theo phong động rất dễ bị chứng nầy. Người cò tình chí ức uất hoặc tính tình nóng nẩy, dễ làm cho can khí uất kết, khí uất hóa hỏa, Can dương bùng lên đột ngột, dương cang mà phong động, cho nên đàm theo phong mà động, xuất hiện chứng phong đàm. Trong quá trình diễn biến bệnh cơ của chứng này, thường kèm theo chúng đàm thấp thuộc Tỳ hư và chứng Can Thận âm hư. “Tỳ là ngúồn sinh ra đàm”, ăn uống không điều độ, mệt nhọc nội thương tổn hại đến Tỳ, Ty khí bất túc không hóa được thủy cốc, tụ thấp sinh đàm thỉ hình thành chứng thấp đàm thuộc Tỳ hư. Chứng Tỳ hư thấp đấm thường ĩà nguồn gốc cái Đàm của chửng Phong đàm; cho nên chứng Phong đàm thường kiêm cả chứng Tỳ hư thấp đàm; Biểu hiện chủ’yếu của nó là kẻm ăn buồn nôn, nôn mửa ra đàm trọc, sau khi ãn thi trướng bụng, đại tiện lỏng nhão, mệt mòi yếu sức, sác mặt vàng bủng không tươi. Bị tổn thương do thất tình hoặc phòng lao, hao tổn tinh huyế,t Can Thận âm hư, âm không liễm dương, dương cang hđa phong, đàm theo phong động, vi vậy Can Thận âm khuy, dương cang hóa phong là cơ sở động phong của Đàm ‘chứng. Ngoài í*a, Can dương cang thịnh, đương nhiệt hun đốt tân dịch lại là ngu&n gốc cái Đàm của chứng Phong đàm, cho nên chứng phong đàm thường kiêm cả chứng Can Thận âm hư. Chứng Can Thận âm hư biểu hiện chủ yếu là lưng gối mỏi yếu, đầu choáng tai ù, nóng tùng cơn mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, vê chiều gò má đỏ bừng, miệng khô họng ráo v.y.

Chẩn đoán phân biệt.

Chứng Nhiệt đàm với chứng Phong đàm cả hai chứng đều ctí thể biểu hiện lâm sàng thần trí dị thường và đàm rãi úng thịnh. Chứng Nhiệt đàm do tà nhiệt nung nấu tân dịch mà sinh đàm, hoặc do đàtn uất sinh nhiệt, nhiệt với đằm câu kết mà thành nhiệt đàm. Nhiệt đàm xâm phạm tâm thần, quấy rối thanh khiếu ở trên thì biểu hiện cẩc chứng trạng phiền nhiệt, mất ngủ, có lúc nói cười vồ cớ hoặc than chí cubng loạn, phát cuồng v.v. Chứng Phong đàm là do Can dương vốn vượng, khắc phạm Tỳ Thổ, Tỳ vận hóa không mạnh, đàm trọc từ trong sinh ra, hoặc mệt nhọc nội thương, Tỳ mất sự kiện vận, tụ thấp sinh đàm, Can phong kết hợp với đàm’hoành hành len lội kinh lạc, che lấp thanh, khieu gây nên bệnh; vỉ vậy xuát hiện các chứng trạng thần trí bị trở ngại đột ngột ngã lãn, thần trí hôn mê, lưỡi cứng không nói được Chửng Nhiệt đàm với chứng Phong đàm, yếu điểm chẩn đoán phân biệt về phương diện thần trí là: Chứng Nhiệt đàm biểu hiện thàn trí cuồng loạn; chứng Phong đàm biểu hiện thàn trí hộn mê, hơn nữa còn có chứng trạng động phong, Về phương diện tính chất của Đàiụ: Chứng Nhiệt đàm thì đàm yậng dính, hoặc.là đàm tráng nhưng kết thành keo thành cục; Chứng Phong đàm thì đàm trong loãng và có nhiều bọt. Về phương diện mạch và lưỡi: Chứng Nhiêt đàm với chứng Phong đàm đều có rêu lưỡi nhớt, mạch Hoạt, nhưng chứng. Nhiệt đàm có thêm hiện tựợng nhiệt, cho nên chất lưỡị đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác; còn, chứng Phong đàm có kiêm chứng trạng Can phong cho nện mạch Huyền Hoạt.

Chứng Huyết ứ, với chúng Phong đàm: Chứng Huyết ứ là do hvtyếi ứ ììgảTi trỏ đường Lạc, mạch lạc khổng được nuôi dường gây nên bệnh, có thể xuất hiện chứng trạng chân tay tê tại, bán thân bẵt toại. Chứng Phong đàm là do phong đàm làtn, ngàn trở đưòng Lạc, mạch lạc mất nuôi dưỡng gây nên bệnh, cũng cớ thế xuất hiện chứng trạng chân tay tê dại, bán thân bất toại, vì thế trên lâm sàng có chỗ gàn giống nhau. Chẩn đoán phân biệt hai chứng này, chủ yếu tùy thuộc vào chứng trạng, vì chứng ứ huyết thi môi miệng và móng tay chân tím tái, chất lưỡi tía tói và có nốt ử huyết, mạch Tế Sác v.v. còn chứng Phong đàm thì’đàm rãi khá nhiều, rều lưỡi trắng nhớt, mạch Hoạt. Chẩn đoán phân biệt hai chứng này không mấy klíd khăn.

Trích dẩn y văn

Bệnh ở Can kinh, gọi là Phong đàm, mạch Huyền mặt tái xanh, chân tay bứt dứt, đại tiểu tiện bí sáp, có lúc cáu giận, đàm có sác xanh và có bọt, sác uống Ẹinì hoa họàn, Phòng phong hoàn, Xuyên khung hoàn (Dàm ẩm – ỵ tôn tát độc).

Phong đàm là ngoại cảm tặc tà, hoặc do Thận khô mộc động, hoặc do nội phong uất nhiệt, sác xanh bóng; nếu là phong hư thì cho uống Tam sinh ẩm, Cổ long hổ đan^ nếu là phong nhiệt thi cho uống Tiểu tỉnh phong thang, Sưu phong hóa đàm hoàn, Hồi thần đan, Trúc lịch cao (Đàm loại – Y học nhập môn).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*