Chứng khí âm đều hư

Khái niệm

Chứng Khí âm đều hư íà chỉ hai phương diện nguyên khí vá chân âm trong cơ thể đồng thời bất túc, vừa cd những chứng trạng suy tổn nguyên khí eủa ba tạng Phế, Tỳ, Thận, lại vừa có những biểu hiện âm hư nhiệt thịnh gây nên tân dịch của năm tạng bị hao tổn và doanh âm bất túc. Chứng liày thường gặp ở giai đoạn giữa hoặc giai đoạn cuối của ngoại cảm ốn bệnh hoặc nội thương tạp bệnh, bởi vì ốm lâu không khỏi hoặc dùng các phép hãn, thổ, hạ, lợi thái quá, khí âm bị hao thương gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chứng Khí âm đều hư là tinh thần mỏi mệt yếu sức, ra mồ hôi, đoản hơi, ho khan ít đờm, biếng ản, miệng khô họng đau, chóng mặt hoa mát, về chiều cđ cơn triều nhiệt, hồi hộp, lòng bàn chân tay móng, mỏi lưng ù tai, tiểu tiện ít, táo bón, lưỡi đỏ tía ít rêu, mạch Tế Sác Vô lực v,v.

Chứng Khí âm đều hư xuất hiện rải rác trong các bệnh Xuân ôn, Thử ôn, Thấp ôn, Thu táo, và các bệnh biến trong nội thương tạp bệnh như VỊ quản thống, Phế lao, Tâm quý và Lao lâm.

Càn chẩn đoán phân biệt với các chứng Khí huyết đều hư và chứng Âm dương đều hư.

 

Phân tích

VI nguyên nhân bệnh, bệnh tà và tính chất bệnh biến, bộ vị phát bệnh của chúng này không giống nhau, lâm sàng phải phân tích rô ràng. Như chứng này cổ thể gặp trong bệnh-Xuân ôn, phàn nhiều do cảm nhiễm tà khí ÔI* nhiệt của thời lệnh mùa Xuân, tà nhiệt ắíì náu ở khí phận, nhiệt kết ở Dương minh làtn háồ khí và tân dịch, làm cho VỊ Trường mất chức năng truyền đạo, biểu hiện chứng trạng mình nóng, tinh thần mỏi mệt yếu sức, miệng khô họng đau, bọng dưới trướng đày rắn chắc, táo bón, rêu lưỡi vàng khô, mạch Tràm Nhược V.V’. điều trị nên ích khí dưỡng âm, tăng tân dịch khoi thông táo bón, chọn dùng bài Tân gia Hoàng long thang (Ôn bệnh diều biệnị gia giảm.

Trong bệnh Thử ỏn xuất hiện chứng Khí âm đều hư, phần nhiều do mùa Hạ nđng nực, nhiệt tà đồn ép mồ Hời, rất dễ haò thương khí âm. Kim tử cửu y án trong Thanh đại danh y y án tinh hoa từng ndr nếu đã ra nhiều mò hôi thi khí nhân dơ tiỉà bị hao ở bên ngòài, vì đại nhiệt thì âm sẽ bị hao ở bên trõng\ Nếu Thử làm thương khí âm, cđ chứng trạng mồ hôi ra nhiều rhà mình nóng, chân tay rã ròi tiníì thần líiồi ĩBiệt, miéng khát mà tấm phiền, mạch Hư mà vô lực; điều trị nên thanh thử nhỉệt để ích khí âm, cho uống -bài Vương thị thành thử ích khí thăng (Ôn nhiệt kinh vỉ) gia giảm. Nếu thử nliĩệt lui mà khí âtíi hao tổn thải quả, phải đề phòng hao dịch khí thoắt, có chứng trạng phát nhiệt đã lui mà ra mồ hôi không dứt,-khát nước phiền nhiệt, đoản hơi suyễn gấp, mạch Tán vô lực; đây là khí không cố nhiếp ĩĩíà âm không giữ gìn được ở bên trong/phải dùng ngay biện pháp ích khí liễm âm, sinh tân cố thoát, cho uổng Sinh mạch tán (Nội ngoại thương biện hoặc luận) gia giảm.

Chứng Khí ôm đều hư xuất *hfện trong bệnh Thấp .ôn, nguyên nhân phàn nhiều đã qua phát hãn nhiều lần, lại vì tính của thấp dính trệ, ra mồ hôi mà thấp nhiệt không giải, thấp tà uất át mà khí âm hao tổn quá nhiều, có chứng trạng phát nhiệt ra mồ hôi mà nhiệt không giải, mổi mệt hụt hơi, vùng ngực bụng

nổi bạch’ bồi khổ trắng như xương khố, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trơn nhớt, mạch Tế Sác.,, đó là loại Khô bồi do khí âm đều hư, phép chữa phải ích khí dưỡng âm, .sinh tân liễm dịch, cho uống Sinh mạch tốn hoặc Sa sâm mạch đông thang (Ôn bệnh điều biện) gia giảm

Chứng này cũng-CÓ thể gặp trcmg bệnh Thu táo, mùa Thu táo tà phạm Phế, táo dễ hóa nhiệt làm thương khí âm, xuât hiện cbứng trạng mỉnh nóng, ho khan không cổ đờm, thở suyễn khát nước tâm phiền, ngực sườn trướng khó chịu, mũi miệng khô ráo, lưỡi ít rêu, ven lưỡi vậ đàu lưỡi đỏ, mạch Tế Sác; điều trị theo phép thanh Phế nhuận táo, cho uống Thanh táo cứu Phế thang (Y môn pháp iuậtị gia giảm. Nếu táo tà hóa nhiệt, hụn đốt Phế Vị, tân dịch à trong bị hao tổn sẽ xuất hiện Phế Vị; khi âm đều tổn thựơng, cổ chứng trạng mình nóng bứt dứt, hữ khan liên tục, ngực bụng đau âm ỉ, Vị qụản có cảm giác nóng rát, họng khồ miệng khát, lưỡi Táo câu ỉưỡi tróc mảng, mạch Tế Sác diều trị nên tri dưỡng Phế VỊ, cho uổng Sa sâm mạch đông thang gia giảm. Nếu Ôn tà ‘nhiệt độc, lấn, sâu vào hạ tiêu, làm hao thương chân âm, hoặc đùng nhàm phép phát hãn, xuất hiện chứng hối hộp, chọáng váng không yên, tự ra mồ hôi không dứt là biểu hiện Tâm Thận khí âm đều hư; điều trị nên ích khí trấn nhiếp, phù cỉụnh bồi nguyên, chọn dùng bài Cứu nghịch thang (Ôn bệnh đièụ biện) gia giảm, cuối bài thuốc này nêu rõ. “Mạch Hự Đại muốn Tận, thêm -Nhân sâi» 2 đồng cân”.

Trong biện chứng Nội thương tạp bệnh, cbứng này thường liện lụy hai Tạng Phủ trở lên,, Như trong bệnh VỊ quản thống, phần nhịiều do ãn uống không điều độj Tỳ Vị vốn hư lại thệm nội thương thất tìnỊỉ, Can kfrí uất trệ, khí uẫthóa hỏa hoành nghịch phạm Vị, nung nấu làm hại VỊ âm, biểu hiện là khí âm của Tỳ VỊ và Can đều bị hư, có chứng trạng VỊ quản đạu: âiỊỊ Ị và trướng đầy, chướng nhiều hơn đau, nhộn nhạo khô miệng,, tinb thần mỏi mệt yếu sức, có lúc ợ hơi, đại.tiện lòng loãng, vÙBg Vị qụản có lúc có cảm giác nóng rát, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Huyền có lực; điều trị nên điều Can hòa VỊ, ích Hhí dưỡng âm, cho uống bài Dưỡng vị thang (Chứng trị chuẩn thằng) hợp với Thược dựợc Cam thảo thang (Thương hàn luận) gia giảm.

Bệnh Phế lao xuất hiện chứng nậy, phần nhiều do phú bẩm hư yếu, nằm ngồi không thận trọng, mệt nhọc tư lự làm hao tan nguyên khí, ehính khí bất túc, vi khuẩn Lao nhân chỗ hư mà vào làm tổn thương Phế ám, xuất hiện khí âm ở Tỳ Phế Vị đều hư, có chứng trạng khái thãu khạc ra huyết, về chiều nóng từng cơn, quầng mất đỏ hồng, đoản hơi, tinh thẳn mỏi mệt, thanh âm thấp nhỏ tự ra mồ hôi hòặc mồ hôi trộm, kém ân, lưỡi đỏ ft rêu, mạch Tế vô lực; điều trị nên ích khí dưỡng âm, bồi thổ sính kitìi, cho uống bài Nguyệt hoa hoàn (Y học tâm ngộ) gia giảm

Chứng Khí ằm đều hư xuất hiện trong bệnh Tâm qụý, phần nhiều đo cơ thể vốn hư yếu, Tỳ Vị bất túc, tư lự quá độ hao thương tâm huyết, huyết hư thì âm suy, xuất hiện khí ám của Tỳ VỊ và Tâm đều hư, có chứng trạng tim hồi hộp không yên, chóng mật hoa mát, sác mật trắng xanh, miệng íchồ họng đáu, lòng bàritay chân nđng, tinh thần mỏi mệt yểu sức, lưỡi đỏ nhạt, ít rêu, mạch Tế Sác hoặc Kết Dại; điều trị nêíi ích khí dưỡng tâm, tư âm ninh thần, chọn dùng bài Thiên vừơng* bổ tâm đan ỉ thế y dắc hiệu phương) hoặc Trích Cam thào thang (Thương hàn luận) gia giảm.

Chứng này cũng xuất hiệtí trong Lâm chứng, phầri nhiều đo bị chứng Lắm lâu ngày khồng khỏi, nguyền khí củà Tỳ VỊ suy tổn, lại thêm mệt nhọc qủá sức, phòng thất vô độ, hoậc dùng thuốc thấm lợi nhiều hại tân dịch, xuất hiện Khí âm của Tỳ Vị và Thận đều hư, lại vì cứ mệt nhọc thì phát bệnh, cho nên gọi là Lao lâm, có chứng trạng tiểu tiện giỏ giọt, tái phát nhiều lần, tinh thần rã rời khốn đốn, bụng dưốĩ trướng nặng, miệng khô họng đau, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác; điều trị theo phép kiện Tỳ ích khí, tư âm bổ Thân, cho uống Thất vị đồ khí hoàn (Y tông kỷ nhiệm biên) giá giầm.

Trên đây giới thiệu những trọng điểm từ Tỷ VỊ khí hư mà ảnh hưởng ăến các Tạng Phủ khác íồi xuất hiện chứng náy; Đương nhiên, còn có thể do Phế khí-hư hoặc Thận khí hư mà ảnh hưởng đến các Tạng Phủ “khác rồi xuất hiện chứng này, như có thể thấy Phế Tỳ khí âm đều hư mà hỉnh thành bệnh Phế nay; có thể thấy Phế Tâm khi ám đều hư mà hlnh thành bệnh Chinh xung Phế Gan khí âm đều hư mà t’iành bệnh Khái huyết;‘ Phế Thận khí âm đều hư gây nên bệnh Suyễn; Tâm Thận khí âm đều hư dẫn đến bệnh Bất mị. Can Tỳ Thận khí âm đều hư dẫn đến bệnh Trúng phong v.v. Tóm lại, lâm sàng nên xuất phát từ học thuyết chỉnh thể và mối liên quan của các Tạng Phủ để tìm ra cáp bộ vị Khí âm đều tổn thương và các Tạng Phủ trực tiếp, mới có thể từ trong những bệnh chứng phức tạp rác rối phân tích được rõ ràng, không thể rối loạn được.

Cũng cần chỉ rõ, vô luận là bệnh ngoại cảm hay nội thương, chứng này phần nhiều gặp ở người vđa khí hư hoặc âm hư, và hay phát bệnh vào mùa Hạ Thu; bởi vì mùa Hạ nóng nực rất dễ hao khí thương âm; Thu táo xâm nhập rất dễ hóa nhiệt, nung đốt khí âm gây nên chứng Khí âm đều hư.

Ngoài những nguyên nhân đã nói ở trên, cũng cần coi trọng đến nhân tố bắt nguồn từ việc chữa chạy, bởi vì từ việc dùng thuốc hạ nhầm, đùng thuốc thổ nhầm, làm ra quá nhỉềụ mồ hôi, dùng thụốc thăm lợi vô độ đều có thể làm cho nguỵên khí của cơ thể suy tổn, âm dịch mất dần, từ đó mà xuất hiện chựng này, không thể không thận trọng.

Những điêu trình bày ở trên, trong quá trinh biến hóa của

ciứng này, thường có kiêm cả ẹác bệnh tà uất – đàm – ứ. Khí âm đêu hư mà kiêm cả khí uất, phàn nhiều do tình tự úc uất, Can uãt hóa hỏa mà làỊn cho khi âm hao thương nặng thêm, như có cãc chứng ho khan, thở sụyễn. Khí ậm đều hư mà kiêm cả đàm nhiệt, phàn nhièu do Tỳ khí hư mà đàm thấp ứ đọng ở trong, hóa tjáo ạhiệt mà kkí âm càng tổn hại, như có chúng chóng mặt V.v. Khí âm đều hư mà kiêm cả ứ huyết, phần nhiều do ứ huyết ngăn trỏ mà hóa nhiệt thương âm, như có các chúng Ế cậch và Trưng tích. Đổi vối các truờng hợp ẹó kiêm bệnh tà, nên áp dụng phép viía công vừa bổ, dứt khoát không được dùng liều thuốc mạnh; Nếu công phạt thái quá, sẽ phạm sại lầm đã hư lại làm hư thêm. Tục ngữ nói “ôn dương thì dễ, hồi phục âm thì khó khân”, nóị lên viôc khôi phục khí âm phải cđ một quá trình, nên sử lý từ từ, không được nôn nóng hấp tấp, dùng bừa thuóc tư nhị làm trở ngại sự sinh phát của Vị khí. Chứng Khí âm đều hư nếu không khôi phục dần dần, khí hư liên lụy đến dương, cđ thể dẫn đến chứng âm dương đều hư. Đây là thời kỳ phát triển cuối của chứng khí huyết âm dương hư, tất nhiên sẽ liên lụy đến gốc rễ Thận âm, Thận dương. Cuối cũng, vì nguyên âm, nguyên dương suy kiệt, âm dương chìa lỉa, sinh mạng cũng ngừng hoạt động.

 

Chẩn đoán phân biệt.

Chúng Khí huyốt đều hư với chứng Khí âm đều hư, trên lâm sàng cả hai đều .biểu hiện khí hư như tinh thần mệt mỏi yếu . SIỈC, đoản hơi, ãn không thấy ngon, Nhưng chúng Khí huyết đều hư là hai phương diện Khí và Huyết đều suy tổn, nguòn sinh hóa (ủa cơ thể bất túc, cổng năng Tạng Phủ giảm sút, có chúng trạng t inh thần mệt mòi yếu súc, đoản hơi, chóng mặt hoa mắt, hòi hộp mất ngủ, sắc mật tái xanh kém tươi, chân, tay tê dại, móng tay chận nhợt, lưỡi nhạt bệu, mạch Tế Nhược vô lực. Điểm chủ yếu

khác với chứng Khí âm đều hư ở chỗ: Một là chứng Khí huyết đều hư, cà khí với huyết cùng mắc bệnh, cốn chứng Khí âm đều hư, là cả khí âm cùng mác bệnh. Hai là loại trên cố Ểhứng trạng của Huyết hư rõ ràng như chổng mặt hoa mất, hồi hộp mất ngủ, sắc mặt trắng xanh, môi miệng và mđng tay chân không tươi. Còn chứng Khí âm đếu hư thì xuất hiện rõ ràng chứng trạng “âm hư sinh nội nhiệt” như ho khan ít đờm, miệng khô họng đau, về chiều triều nhiệt, lòng bàn chân tay nổng. Bà ỉà chứng Khí huyết đều hư trong quá trình diễn biến tật bệnh, có thể do huyết hư đến nỗi âm khuy, dẫn đến khí âm.đều hư, về cơ chế bệnh hai chứng này có liên quan với nhau. Bốn là èhứng Khí huyết đều hư về điều trị nên bổ ích khí huyết, còn điều trị chứng Khí âm đều hư nên theo phép ích khí dưỡng âm sinh tân.

Chứng Ằm dương đều hư với chứng Khí âm đều hư, cả hai đều thuộc hư chứng, hơn nữa đều có biểu hiện chứng Ảm hư – Nhựng chứng Ảm Dương đều hư chủ yếu là chỉ nguyên âm, nguyên dương của Thận đều hư; vô luận âm dượng của Can, Phế, Tâm, Tỳ bất túc, phát triển đến giai đoạn cuối, tất nhiên sẽ liên lụy đến chân âm chân dương của Thận, bởi vì chân âm chân dương của Thận là cơ sở của dương khí và âm dịch toàn thân, cho nên lâm sàng chỉ âm dương đều hư tức là chỉ Thận, còn bộ vị bệnh biến của chứng Khí âm đều hư thì không nhất định là ở Thận, mà năm Tạng đều có thể xuất hiện. Chứng Khí âm đều hư có những chứng trấng của khí hư rô rệt như tinh thần mỏi mệt yếu sức, tiếng nổi thấp nhỏ và đoản hơi; Chứng Âm dương đều hư không chỉ biểu hiện ãĩh dịch bất túc mà còn thấy cả biểu hiện dữơng khí bất túc hoặc dương hư sinh ngoại hàn; ví đụ như bệnh Phế laò dẫn đến chứng âttt dương đều hư, cđ thể thấy biểu hiện ở Phế bộ nhử các chứng trạng ho khan, khạc ra huyết, suyễn gấp thở dốc, động làm thỉ bệnh nậng thêm, lại cò thêm các chứng trạng của âm hư như trong xương nóng âm ỉ, mồ hôi trộm di tinh, và có thêm’các chứng trạng của dương hư như lưng đùi mỏi lạnh, cơ thể lạnh tay chân lạnh, tự ra mồ hôi, dương nuy, lưỡi nhạt bệu, mạốh Tràm Tế V.V.’ Cho nên lâm sàng chỉ cần nắm vững đặc điểm dương hư sinh hàn thì chẩn đoán phân biệt hai chứng không khtí khăn.

 

Y văn trích dẫn.

Lại cđ loại Bạch bồi có nốt trắng nhỏ Ịấp ỉánh như thủy tinh, đó là thấp nhiệt làm thương Phố, tà khí tuy ra mà’ khí dịch bị khô, cần dùng vị thuốc ngọt để bổ; hoặc chưa đến nỗi làm thương khí dịch kéo dài thỉ đó là thấp, uất ở Vệ phận, là lý do hãn không ra được gây nên, cần sử trí tà khí ở khí phận, Bạch bồi mà tráng như xương khô là xấu, là dấu hiệu khí dịch bị kiệt (Ngoại cảm ôn nhiệt thiêrt)

Nhiệt vào huyết thất, thày thuốc điều trị thanh cả khí và huyết, tà khí rút đi nửa chừng, đtl tà chưa hết, mạch Sác, bài Hộ dương hòa âín thang chủ chữa bệnh ấy – Bị thử tà và nhiệt kéo dài, ngủ không yên, ăn không ngon, thần thức lơ mơ, đó là âm dịch và nguyên khí cả hai đều bị hại, bài Tam tài thang chủ chữa bệnh ấy – Kiết lỵ kéo dai, âm bị thương, khí bị hâm, giang môn trệ xuống, phải ngồi mỏi cả mông, bài Địa hoàng dư lương thang chủ chữa bệnh ấy. Kiết lỵ kéo dài, âm bị thương miệng khát lưỡi khô, sốt nhẹ ho nhẹ, bài Nhân sâm ô mai thang thủ chữa bệnh ấy (Hạ tiêu thiên – Ôn bệnh điều biện).

Mạch tượng Hư Tế, tả quan hơi Huyền, Tỳ Vỵ suy yếu từ lâu, Can dương vượng một phía, lại thêm vật vã quá mức, Tâm khí cũng hư. Từ vào Hạ đến giờ lại cảm nhiễm tà khí hàn thử, cổ các chứng trạng đau bụng tiết tả; Hiện tại bệnh đã giảm. Nhưng , tảng sáng thì đau bụng sôi bụng, miệng ứa bọt rãi, chân tay các khớp đau mỏi, khát nướq tâm phiền, đêm ngủ khống yên, ân thứ thơm tho thi đi.lỏng, rêu ở giữa lưỡi tróc mảng, đây là chứng.khi âm đều tổn thưong, trung khí không vững vàng, dùng thang thuốc thiên về hàn thiên về nhiệt rất khổ; nghĩ nên điều dưỡng Tâm Tý làm bền chác trung khí; dùng Dỏng sâm, Sơn dược, Táo nhân, ô mai, Thược dược, Trích thảo, Bạch truật, Dương quy, Phục thần, Liệu đậu, Tríth kỳ, ích trí, Hồng tảo… (Mã bồi chi y án – Thanh đại danh y y án tính hoa).

Tuổi đã ngoài 70, bệnh đã hơn hai tuần, không những chân âm bị tổn thương, mà có thể chân khí cõng hao tổn, cho uống các vị Giao, Địạ để vào âm và giữ gỉn dịch, lại thẽm Sâm Mạch vào khí để bảo tòn tân. Hai ngày nay cd chiều hướng chuyển đỡ, xu thế mãnh liệt đã giảm dàn, tân dịch cũng thây hối phục, chất lưỡi còn khô ráo chưa nhuận, đại tiệa đã sáu ngày chưa đi, phủ khí kém sự thông giáng, tồn tại ảnh hưởng nhiệt đàni, vì thế còn lưởng vưởng. Phép trị vẫn theo nguyên ý có gia giảm thêm: Tây dương sâm, Tiên sinh địa, A giao, Tê giác, Thạch cao nung, Nhân trung hoàng, Qua lâu nhâiv Đan bì, Ngân hoa, Cát cánh, Trúc lịch, Tang diệp (Kim tử cửu y án r-Thanh dại danh y y án tinh hoa).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*