Chứng huyết hư

Khái niệm

Chúng Huyết hư là tên gọi chung cho các chứng hậu nguyên nhân do huýết dịch trong cơ thể bất túc, chân tay Tạng Phủ và trảm mạch mất sự nuôi dưỡng mà xuất hiện suy nhược toàn thân. Phần nhiều do nguyên nhân nội thương mệt mỏi, tư lự quá độ, ngấm ngầm hao tổn âm huyết; Tỳ Vị hư yếu, sự sinh hđa khí huyết, bất túc hoặc bị mất huyết quá nhiều gây nên bệnh. Ốm l&u không khỏi, sau khi bị ôn bệnh cũng có thể bị chứng nầy.

Biểu hiện chủ yếu trên lâm sàng là sác mặt trấng nhợt không tươi hoặc vàng bủng, sắc môi nhợt, hoa mắt chđng mặt, hồi hộp mất ngủ, chân tay tê dại, phụ nữ hành kinh lượng ít, kéo dài, thậm chí bế kinh; Chất lưỡi nhạt, mạch Tràm Tế vô lựfc v.v.

Chứng huyết hư thường gặp trong các bệnh “Tâm quý”, “Hư lao”, “Huyễn vâng”, “Đầu thống”, “Kính chứng”, “Huyết chứng”, “Tiện bí”, “Phát nhiệt”, “Kinh nguyệt không đều”, “Bế kinh”, “Không thụ thai” v.v.

Cần chắn đoán phân biệt với các “chứng Âm hư”, “chứng Huyết thoát”.

 

Phân tích.

Chứng Huyết hư có thể xuất hiện trong nhiều loại tật bệnh, biểu hiện lâm sàng có đặc điểm cụ thể nhất định, phép điều trị cũng không giổng nhau.

– Như trong bệnh Tâm quý có chứng huyết hư, lâm sàng biểu lậệĩi là hồi hộp, chóng mặt, mất ngủ hay mê, sắc mặt nhợt không tươi, mỏi mệt yếu sức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế Nhựợc. Dây là do tự lự quá độ hao thương Tâm Tỳ hoặc ốm lâu cơ thể hư yếu, khí .huyết bát túc, hoặc do mất huyết quá nhiều, Tâm mất tác dụng gây nên bệnh. Điều trị nên bổ huyết dưỡng Tâm, ích khí an thần, cho uống Quy Tỳ thang (Tế sinh phương) hoặc Trích cam thảo thang (Thương hàn luận)..

2 – Chứng Huyết hư xuất hiệH trong bệnh Hư lao, chủ yếu là cd những chúng trạng của Tâm, Can huyết hư.

(1) Tâm huyết hư ctí đặc điểm là Tâm quý chinh xung, haý quên, mất ngủ hay mê, sắc mặt không tươi, chất lưỡi nhạt, ittạch Tế hóậc Kết Đại; iphần nhiều do phú bẩm bất tóc, tinh huyết không mạnh, tư lự hao thương tâm huyết1, sau khi bị ốm iỉặng không được điều lý kịp thời, âm huyết suy hư lâu ngày không hồi phục, tích Hư thành Tổn gây nên. Điều trị nên dưỡng huyết an thần, cho uống Đữỡng tâm thang (Chứng trị chuẩn thàng) hoặc Quy tỳ thang (Phụ nhân ‘lương phứơngÁ

7 (2) Ưan huyết hư: đặc điểm là chóng mặt, hoa mắt, ù tai, đáủ sườri, run sợ khôhg yên, kinh nguyệt không điều, bế kinh, nặng hơn thì da dẻ nhăn nheơ trdc vẩy, sấc tìiặt trấng xanh, chất lứỡí nhạt, mạch Huyền Tế. Đây là do tình chí uất kết ngấm ngàm hao tổn Can huyết, hoặc mất huyết quá nhiều, sảa khi ốm làu không kịp thời oh&m s&vâm huyết suy kém, nặng hơn thỉ huyết hư hđá táo lâu ngày không hồi phục, tích Hư thành ‘Lao gây nên; Điều trị nên bổ huyết dưỡng Can, cho uổng Tứ vật thang (77iái bình huệ dân hòa tẽ cục phương) gia vị.

Ỹ” – Chứng Huyết hư gặp trong bệnh Huyễn vâng, đặc điểm’ iầm sàng là sau khi lao động mệt nhọc thì chđng mặt nậhg thêm, mặt nhọt kém tươi, môi và mổng tay chân xanh nhợt, kiêm cả chứng

trạng tinh thần môi mệt yếu sức, hụt hơi biếng nói, hồi hộp mất ngã v.v. Đây là Tâm Tỳ đềủ hư do ốm lâu, hoặc nhiệt bệnh làm hao thương âm huyết, huyết hư khống tư nhuận được toàn thân, huyết không dâng lên Nầớ, hoặc ià huyết hư âm khuy, hư nhiệt quây rối thành khiếu ở trẽn gây nên; điều trị nên ích khí dưỡng huyết, cho uống bài Quy Tỳ thang (Phụ nhăn lương phương) gia vị.

V – Trong bệnh Đầu thống xuất hiện chứng Huyết hư, lâm sàng có chứng trạng đau đãu chóng mặt, đau ê ẩm, thệt nhọc thi đau tăng, hồi hợp mất ngủ, tỉnh thần mệt mỏi yếu sứe, ãn uống kém;

Đây là do ốm lâu, chính khí hư yếu, hoặc mất huyết qũá nhiều, trung khí bát túc, thanh dương không thảng, doanh huyết suy hư không cung cấp lên não gây nên, bệnh; phép trị nên bổ dưỡng khí huyết, dùng bài Bát trân thang ỴC7iín/t thể loại yéu) gia vị.

Chứng Huyết hư xuất hiện trong bệnh Đại tiện bí, lâm sàng . có biểu hiện đại tiện bí kết, phải dùng sức để Tận, sác mặt khống tươi, môi lưỡị nhợt, chóng mặt, hoa mái, hồi hộp mạch Tế. Dây là do ốm lâu thể lực yếu, tuổi cao suy nhược, sau khi đẻ bị mất hụyết, hoặc là huyệt hư tân. dịch ít, Đại trựờng mất sự mềm mại, hoặc là huyết ít đến nỗi âm hư nội nhiệt gây nên, cho uống bài Nhuận trường hoàn <Thẩm thị tôn sinh y thự).

/ – Trong bệnh Xuất huyết xuất hiện chứng Huyết hư, có các chứng trạng mũi chẩy máu, răng chấy máu thậm chí chấy máu dưới da, sấc mật tráng nhợt, hoa mắt chóng mặt, hồi hộp, tinh thần mỏi mệt yếu sức. Đây là do mất máu quậ nhiều, huyết hư khi cũng suy, khí khống nhiếp huyết cho nên huyết ra không dứt, điều trị theo phép bổ khí nhiếp huyết, uổng bài Nhân sâm quy tỳ thang (Phụ nhăn lượng phương).

Chứng Huyết hư xuát hiện trong bệnh Phát nhiệt, lâm sàng có các chứng phát sốt ngày nhẹ đêm nặng; hồi hộp yếu sức, sấcH^u

mật không tươi, lưỡi Iihạt mạch Tế Sác, nguyên nhân bệnh do ốm lâu, Tâm Gan huyết hư hoặc Tỳ không sinh huyết, hoặc mất huyết quá nhiều gây nên, đỉều trị nên thanh nhiệt dưỡng hùyết, đùng bài Đương quy bổ huyết thang (Lan thát bi tàng).

Tóm lại, chứng hậu tuy giống nhaủ, nhưng trong tật bệnh khác nhau đều có biểu hiện đặc điểm, lâm sàng có tiiể càn cứ vào đặc điểm bệnh chứng của tự nó mà tiến hành phân biệt điều trị.

Chứng Hủyết hư phần lốn phát sinh ở phụ nữ, bởi vỉ kinh nguyệt, thụ thai, tất cả đều lấy huyết làm gốc; Biểu hiện lâm sàng là hành kinh thường muộn, lượng kinh ít, sác nhợt, chất trong loãng, bụng dưới đau như rỗng không thậm chỉ bế kinh, iiại còn trường hợp huyết hư mà không thụ thai hoặc hoạt thaỉ. Người tuổi cao thể lực yếu cụng thường gặp chứng huyết hư, chú yếu cd liên can tới tuổi cao tinh suy huyết thiếu, lâm sàng biểu hiện tinh thần ủy mị, sác mặt không tươi, hồi hộp mất ngủ, chóng mặt hoa mắt, tai ù tai điếc hoặc táo bón.

Huyết là âm, khí là dương. Hạyết là ĩttè cửa khí, khí là soái của huyết, cả hai dựa vào nhau mà tồn tại, dựa vào nhau mà phát huy tác dụng. Khí cd táé dụng làm ấm áp cơ báp, hổa sinh ra tinh huyết thống nhiếp huyết dịch. Huyết có tác dụng vận tải dươag khí, làm mềm mại Cd bắp; Cả hai quan hệ chặt chẽ, cho nên trong quá trình diễn biến bệnh cơ ứủa chứng Huyết hư thường thấy hai tình huống: Một là huyết hư không chuyển tải được khí, thì khí cũng theo đó mà ít đi, dẫn đến chứng khí huyết đều hư, biểu hiện các chứng trạng sắc-mặt trắng xanh, hồi hộp mất ngủ, thiểu hơi biếng nđi, mỏi mệt tự ra mồ hôi, lưỡi nhợt bệu, mạch Tế Nhược. Hai là do bị mất huyết mạn tính kéo dài, hoặc mất nhiều huyết đột ngột, huyết hải rổng không, chân âm bất túc dẫn đến chứng Huyết thoát; có chứng trạng sắc mặt trắng bệch, non nớt không

tươi, hoa mát chóng mặt, chân tay mát lạnh, mạch rỗng không v.v. Vì mất huyết quá nhiều, huyết thoát khí khổng nơi dựa, khỉ sẽ theo đó mà thoát ra đột ngột, cũng có thể hình thành chứng Khí theo huyết mà thọát, có chứng trạng sác mặt trắng xanh, ra mò hôi, tay chân lạnh, tạy chân không ấm, thậm chí ngâ lân quay, mạch Vi Tế hoặc Khâu v,v. Khi điều trị càn căn cứ vào lý luận “Huyết lậ vật hữu hình không sinh được nhanh, Khí là thứ vô hình phải củng cố gấp”, nên bổ khí cố thoát, đề phòng tai biến vong dương.

 

Chẩn đoán phân biệt.

Chứng Âm hư với chứng Huyết hư, cả hai đều là Hư chứng; Huyết thuộc âm, tinh – tân – dịdh cững thuộc âm, hơn nữa “tinh huyết cùng một nguồn*, “tân – huyết cùng một nguồn”: Phạm vi chứng Âm hư rộng hơn chứng Huýết hư. Nói theo nguyên nhân bệnh, chứng Huyết hư là do Tỳ Vị hư yếu, nguồn sinh hda bất túc, thất tình uất kết, ốtn lâu không khỏi,, mất nhiều máu gây nên; Huyết hư không tư dưỡng lên đàumặt thì hoa mát chóng mặt; không dồn lên mật nên sác mặt trắng xanh hoặc vậng bủng, sấc môi tráng nhợt; doanh huyết bất túc, Tâm không được nuôi dưỡng, nên hồi hộp mất ngủ; huyết hư không nuôi dưỡng gân mạch nên tay chân tê dại thậm chí eo rút; huyết hải bất túc, Xung Nhâm rỗng khôủg, nên kinh nguyệt không điều, thậm chí bế kinh; Huyết hư khồng dồn lên lưỡi nên chất lưỡi nhợt; mạch đạo không đầy đù nên mạch Tế Nhược. Còn chứng Âm hư, phần nhiều đo ốm lâu, âm phàn bất túc, bệnh nhiệt thương tân, hao dịch; hoặc hãn; thổ, hạ thái quá gây nên. Âm hư sinh nội nhiệt, hư nhiệt quấy rối ở trong nên lòng bàn tay bàn chân nóng, về chiều trào nhiệt; Hư nhiệt ở, trong dồn tân dịch ra ngoài nên ra mồ hôi trộm;

f tân dịch trong cơ thể ồuy hao nên miệng ráo họng khô, tiểu tiện sẻn đỏ; Âm hư hỏa vương nên lưỡi đỏ ít rêa hoặc không có rêu, mạch thẩy Tế Sác. Như vậy thì thấy phân biệt chứng Huyết hư vớỉ chứng Âm hư chủ yếu ở chỗ: Chứng Huyết hư đột xuất ở chữ “Sắc” tức là sác mặt trắng xanh, môi miệng tráng nhợt, móng tay ọhân kém tươi; mà chứng Âm hư nổi lên ở chữ “nhiệt” tức là Tâm nhiệt, triều nhiệt, đạo hãn v.v. Phân biệt ở chỗ đó.

Chứng Huyết thoát với chứng Huyết hư eả hai đều ở phạm vi huyết dịch trong cơ thể suy kém. Chứng Huyết thoát nặng hơn chứng Huyết hư. Chứng Huyốt thoát có thể từ chứng Huyết hư phát triển thêm một bước; cũng cd thể do đột ngột mất quá nhiều máu gây nên. Vì mối quan hệ âm dương hỗ căn, âm tổn liên lụy đến dương, mất huyết quá nhiều, khí kỉtông nơi nương tựa, huyết thoát thì khí cũng theo đó mà thoát đột ngột. Cho nên sau khi huyết thoát thường xuất hiện chứng hậu khí theo huyết thoát, có chúng trạng sác mặt tráng xanh, chân tay không ấm, tự ra mồ hôi, da lạnh, hơi thở thấp nhẹ, mạch Vi Tế hoặc Khâu, nặng hơn thì thành Vậng quyết, rõ ràng là biểu hiện khác với chứng Huyết hư, phân biệt không khó khãn gì.

 

Trích dẫn y văn

Chinh xung là do huyết hư. Chinh xung không giờ giấc nhất định phần nhiều là huyết ít (Kinh quí chinh xung – Đan Khê tăm pháp).

Chứng phát nhiệt ở huyết phận thì ban ngày yên tĩnh, ban đêm phát nhiệt, môi khô miệng ráo trái lại không muốn uống nườc, khingiT”ra mồ hôi trộm, đó là chứng phát nhiệt ở huyết phận vây. Nguyên nhân huyết phận phát nhiệt, hoặc là sau khi mác bệr.h nhiệt, nhiệt ẩn náu ở trong huyết; hoặc là âm huyết

vôn suy kém, huyết hư hỏa vượng, cả hai đều có thể gây nên huyết phận phát nhiệt (Chứng nhăn mạch trị ,- quyển 1).

Huyết phối hợp với Khỉ, Khí sở dỉ thông sướng là nhờ có huyết giúp đỡ. Các loại thổ huyết, nục huyết, băng lậu, sau khi đã bị vong âm là do Can không thu nhiếp được Vinh khí, làm cho con đường của các loại huyết đi càn, cho nên chứng Huyễn vâng là do huyết hư (Thượng khiếu môn – Chứng trị vứng bổ).

Chứng Huyết hư có chứng trạng sáng mát tối nóng, lòng bàn tay chân nóng, da dẻ khô khan tróc vẩy, môi trắng bạch, phụ nữ thì hành kinh trồi xụt không điều, mạch Tế vô lực, nôn dùng phép BỔ điều trị (Huyết chứng – Chứng trị vậng bổ).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*