Chứng can khí uất kết

Khái niệm

Chứng Can khi uất kết là tên gợi chung cho những chứng tỉ-ạng tạng Can vì tình chí không thư sướng, uất giận tổn thương làm mất đi sự ‘Sơ tiết dẫn đến khí cơ uất trệ, mộc không điều dạt gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là tinh thần ức uất, ngực sườn đau hoặc đầy tức, hay thở dài, hoặc bầu vú và bụng dưới trướng đau, đại tiện thất thường, kinh nguyệt không đều, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền.

Chứng Can khí uất kết thường gặp trong các bệnh có liên quan chặt chẽ với tinh thần và thàn trí như chứng Điên, Hiếp thống, VỊ quản thổng, Phúc thống, Mai hạch khí, Tích tụ, bệnh về Kinh nguyệt…

Cần chẩn đoản phân biệt với các chứng Can khí hoành nghịch và chứng Tỳ thấp Can uất.

 

Phân tích

Chứng Can khí uất kết có thê’ gập trong nhiều loại tật bệnh, đều có đậc điểm lâm sàng và điều trị cũng khác nhau

Chứng này xuát hiện trong Điên chứng thường có những chứng trạng tinh thần ức uất hoặc nói lảm nhảm một mình, nói nâng lẫn lộn vô luân hoặc cười khóc bất thường, lúc vui lúc buồn, hoặc như ngơ ngẩn, không thiết ãn uống, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Huyền hoặc Huvền Hoạt, phàn nhiêu do tự lự thái quá, mong muốn không đạt, uất giận không tháo gỡ được, Can khí uất kết, Mộc không sơ Thổ, Tỳ khỉ không thăng, đàm thấp chất chứa ở trong, đàm khí uất kết gây nên; điều trị nên khai uất hóa đàm, dùng bậi Tiêu giao tán (Hòa tễ cục phương 1 phối họp vối, bài Ôn đởm thang <Thiên kim phươngJ.

Trong các bệnh Hiếp thõng, Vị quản tàỗng. Phúc thống biểu hiện chủ yếu là trướng đau. hoặc trướng nặng hơn đau, hoặc có luồng hơi xiên xuốt, cơn đau thường có quan hệ chặt chẽ với tình chí, theo sự biến htía của tinh tự mà tâng giảm, có kiêm chứng vàng ngực khó chịu, bụng bỉ đây, kém ân, đó là tổn hại do thất tình, khí cơ của Can bị uất không điều đạt gây nên; điều trị nên sơ Can lý khí chỉ thống, cho uống Sài hò sơ can tán <Cảnh nhạc toàn thư). kết hợp yới Kim linh tử tán I Tố Vấn. bệnh cợ khí nghi bảo mệnh tập).

Trong bệnh Mai hạch khí thi có biểu hiện trong họng vướng tác như bị nghẹn, khạc không ra, nuốt không trôi, lúc tụ lúc tan, đó là khí uất kết hợp với đàm gáy nên; điều trị theo phép sơ khí hóa đàm, cho uống bài Bán hạ hậu phác thang (Kim Qui yếu lưạc).

‘ Trong bệnh Tích tụ thì có biểu hiện trong bụng tích hòn khối lúc tụ lúc tan, hoặc trướng đau, đó là do ưu tư uất giận lâủ ngày không tháo g8 được, Tạng Phủ mât đièu hòa, khí cơ bị ngán trệ, huyết đi không iưu thông gây nên bệnh; Điều trị nên hành khí tiêu tích, hoạt huyết thông lạc, dùng bài Đại thất khí thang <Y học nhập môn).

Trong bệnh Nguyệt kinh thì có biểu hiện hành kinh sớm, muộn không nhất’định, hành kinh không thư sướng, ngực khó chịu, hai vú, hai bên sườn, và bụng dưới trướng đau, khi đang hành kinh, tính tinh ntíng nảy hoặc ức uát không vui, chất lưỡi đỏ xạm, mạch Huyền, đd là đo khí cơ uất trệ, Xung Nhâm không điều hoà gây nên; điều trị nên sơ Can giải uất, lý huyết điều kinh, dùng bài Định kinh thang (Phó thanh chủ nữ khoa).

Chứng Can khí uất kết phần nhiều phát sinh ở tuổi đã trưởng thành, nhiều nhất là phụ nữ, đặc biệt là ở tuổi 49, vỉ mạch Nhâm hư; Irtêtbh Thái xung giảm sút, thiên quí cạn, địa đạo không thông, thường biểu hiện tình tự dẻ bị kích động, mừng hoặc lo thương muốn khóc, phiền táo không yên, hồi hộp, mất ngủ, hay quén, tai ù, chóng mật v.v… Chứng Can khí uất kết có quan hệ chặt chẽ với sự biến hda của tình chí, có thể tái phát khi tình chí không ổn định; sau khỉ tình tự được ổn định thì bệnh giảjn nhẹ, cho nên những người tính tình luôn thay đổi, không dễ mác chứng này.

Trong quá trình biến hóa và phát triển về bệnh cơ cửa chứng Can khỉ uất kết, vì khí là soái của huyết, huyết là mẹ của khí, khí uất thì huyết trệ, có thể thẫy nrgực sưòn nhói đau, noi đau cố định. Can khí uất trệ thì Mộc thịnh khắc Thổ, Tỳ VỊ bị tổn thương, vận hóa thất thường mà thành thực trệ, ctí thể xuất hiện các chứng trạng ãn uống không tiêu hóa, bụng trướng đầy, nôn mửa Ợ hơi, hoặc (íau bụng ỉa chẩy. Khí uất thì tân dịch ngưng tụ mà sinh đàm, có thể có các chứng trạng ngực bụng bĩ đầy, kém ản, rêu lưỡi nhớt. Khí uất không khai thông lâu ngày hóa nhiệt, có thể gây nên chứng Tâm phiền, đáng miệng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Can khí hoành nghịch với chứng Can khí uất kết, cả hai đều do tinh thần bị kích thích, khí cơ của tạng Can không điều đạt gây nên. Nhưng tình thế bệnh, biểu hiện lâm sàng đều có chỗ khác nhau. Chứng Can khí uất kết là do khí cơ của tạng Cạn bị uất mà không được thoải mái và phát tiết, vì thế kết tụ và ứ trệ ở trong eơ thể, tình thế bị ức chế làm chọ mất sơ tiết, tác dụng bất cập, cho nên biểu hiện lâm sàng chả yếu là tinh thần bị ức uất, ý chí tiêu cực, ít nói nâng, hay thở dài, ngực sườn đày tức hoặc đau. Chứng Can khí hoành nghịch là do khí cơ ở tạng Can không hòa mà rối loạn, đàu tiên khởi bệnh tìí bản kinh, tiến thêm bước nữa là hoành nghịch xâm phạm các tạng khác, lấn Tỳ, phạm Vị, xung Tâm, vũ Phế, quấy rối Thận, tình thế bệnh hưng phấn, lấn Tỳ thì bụng trướng đau, ỉa chấy, phạm Vị thì đau bụng, nôn mửa và nấc; xụng Tâm thì ngực khó chịu, dau vùng Tâm muốn chết; vũ Phố thì qgựp đày, suyễn khái, đàm thấu; Quấy rối Thận thì tinh quan không bền mà di tinh tiết tinh di niệu;

Chứng Can khi uất kết với chứng Can khí hoành nghịch đều có biểu hiện Tỳ không kiện vận, nhưng cơ chế bệnh lý phát sinh ra hai chứng này khác nhau. Căn cứ vào nguyên táfc ngũ hành sinh khác, Mộc khắc Thổ, “khác” là quan hệ ức chế bình thường, tức là sự vận hóa của Tỳ thổ càn phải nhờ vàQ công nàng’sfơ tiết điều đạt của Can mộc mới hoàn thành, như sách Huyết chứng luận nói: “tính của Mộc chủ về sơ tiết, đồ ăn vào Vị hoàn toàn phải nhờ vào khí của Can mộc để sơ tiết thì thuỷ cốc mới biến hoá được”. Vì vậy, chứng Can khí-uất kết mà xuất hiện chứng trạng trung tiêu không vậĩí chuyển, đó là do sau khi khí cơ của tạng Can bị’ uất kết mà mất đi chức năng sd tiết điều đạt bình thường, không hỗ trợ cho công nâng vận hóa của Tỳ thổ, tức là níộc không sơ thổ mà tạo thành. Can’ khí hoành nghịch mà xuất hiện chứng trạng trung tiêu ‘không vận hành, đó là do Can tạrig sơ tiết thái quá, khi cơ hoành nghịch, xâm lấn Tỳ thổ, tức là Cđn mạnh Tỳ yếu gây nên, rõ ràng là hai chứng khác nhau. Chứng Can khí uất kết có thể phát triển, chuyển hóa ra chứng Can khí hoành nghịch, mà chứng Can khí hoành nghịch nói chung không chuyển hda ra chứng Can khí uất kết. Chứng Tỳ thấp Can uất với chứng Can khí uất kết: Chứng Can khí uất kết ĩà đo khí cd của tạng Can bị uất trệ, vị trí bệnh nguyên phát là ở tạng Gan. Như Vương Húc Cao nói “đó là Can khí tự uất ở bản kinh” (Vương Húc Cao y thư lục chủng – Tăy khé thư ốc dạ thoại lục). Chứng Tỳ thấp Can uất thì đo thấp trọc sinh ra từ bên trong làm khốn đốn Tỳ thổ, Tỳ mất sự kiện vận, khí trệ ỏ Trũng tiêu, mất chức năng thăng giáng, ảnh huởng tới sự điều đạt sơ thông của khí cơ tạng Can mà hình thành chứng này, vị trí bệnh nguyên phát là ở tạng Tỳ, Can uất chỉ là chứng thứ phát. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chúng Tỳ thấp Can uất, trước tiên là cộ những chứng trạng thấp khốn Tỳ thổ như ãn kém, bụng trướng, đại tiện nhão, rêu lưỡi nhớt v.v… sau đó lại xuất hiện các chứng trạng Can uất như hai bên sườn trướng đau, tinh thần bị ức uất… tức là chứng Thô’ úng mộc uất, khác xa với chúng Can khí uất kết.

 

Y văn trích dẩn.

Nam thuộc dương, đác khí mà dễ tan; Nữ thuộc âm, đắc khí phần nhiều uất (Ngoại dài bí yếu).

Khí uất: ngực sườn đau, mạch Trầm Sác. Thấp uất: đau toàn thân hoậc đau các khớp, thời tiết âm u trở lạnh thì đau, mạch Trầm Tế. Đàm uất: hễ động làm là suyễn, mạch Thốn khẩu Trầm Hoạt. Nhiệt uất: khó chịu bức bối, tiểu tiện đỏ, mạch Tràm Sác. Huyết uất: tứ chi vô lực, ăn được, tiểu tiện hống, mạch Trầm. Thực uất: ợ hơi ứa nước chua, bụng đầy không ăn được, mạch Nhân nghinh bình hòa, mạch Khí khẩu rất thịnh (Lục uát – Đan Khê tăm phảp).

Bản khí của nầm Tạng tự sinh chúng uất. Tâm uất, thần khí hôn muội, vùng Tâm hung hdi khó chịu, làm việc hay quên, nên dùng các vị như Nhục quế, Hoàng liên, Thạch xương bồ để điều trị. Can uất, hai bên sườn câng, to, ợ hơi, liên tục phát tiếng Ợ; điều trị nên dùng các vị như Thanh bì, Xuyên khung, Ngô thù du; Tỳ uất: vùng Trung quản hơi đầy, nhiều nước dải, kém ãn, tứ chi vô lực, dùng các vị như Tràn bị, Bán hạ, Xương truật để điêu trị. Phế uãt.: bì mao khô không nhuận, muốn ho mà không có đàm; điều trị nên dùng các vị như Cát cánh, Ma hoàng, Đậu sị. Thận uất: bụng dưới hơi rán, tinh tủy thiếu ít, hoậc có chứng Trọc, chứng Lâm, không đứng được láu, nên dùng các vị như Nhục quế, Phục linh. Tiểu hồi hương để điêu trị. Còn, có loại Đởm uất, đáng miệng, mình mẩy ctí triều nhiệt qua lại, sợ sệt như có người đến bát, dùng các vị như Sài hò, Trúc nhự, Cạn khương để điềụ trị (xích thủy huyền chăuj.

Tính của Can ĩnộc thãng tán không chịu nổi uất át; Nếu uất thì Kinh khí nghịch, là ợ, là trướng, là nôn mủạ, là cáu giận đau sườn đột ngột, là.ngực đầy kém ân, là Sôn tiết, là Hội sán… đều là do Can khí hoành nghịch gây sự (Can khí – Loại chứng trị tài).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*