Chứng can hỏa thượng viêm

I. Khái niệm

Chửng Gan hỏa thượng viêm lầ chỉ Can khi uất kết hóa hỏa, hoả khí nghịch lên, có những chứng hậu chủ yếu như đau đầu, mắt đỏ, tai ù miệng đấng, phản nhiêu do mộc uất không điều đạt, công dụng của Can thái quá gây nên bệnh

Biểu hiện lâm sàng chủ yếú là đau đàu chóng mật, tai ù như sống đồn, thậm chí tai điếc đột ngột, mật hồng* mắt’đỏ, miệng đắng họng khíô, sứỡn đau, phiền táo đễ giận, mất ngủ hay mê, hoặc thổ huyết, nục huvết, nuốt nước chua, tào bón tiều tiện vàng, ven lưỡi và đàu lưỡi đỏ. rêu lưỡi vàng, mạch Huyên Sác.

Chứng Can hỏa thượng viêm thường gặp trong các bệnh Đầu thống, Tai ù tai điếc. Xuãt huyết, Bất mị, Nuốt nước chua, Cuồng táo.

Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Đởm nhiệt, chứng Can dương thượng cang.

 

Phân tích

Chứng Can hỏa thượng viém có thể gặp trong nhiều tật bệnh, đều có đặc điểm lâm sàng riéng và phép điều trị cũng khác nhau.

Trong bệnh Đầu thống có chứng này thỉ có biểu hiện đau vùng đinh đầu, đau như búạ bổ hoặc căng trướng bức tức khó chịu, hoặc cảm thấy gân mạch vùng đầu nhấm nhói và đau giật,

phàn nhiêu kiêtn chứng choáng váng không đứng vững, hoa mát đỏ và đau, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng, mạch Huyèn Hoạt Sác. Đây là do tinh chí uất kết., khí uất hóa hỏa, tính của hỏa bốc lên, quấy rối phủ thanh không, huyết khí bị nghịch loạn gáy nên; điêu trị nên dùng thuốc đắng tính lạnh đệ trực tiếp trừ bệnh, thanh Can tả hỏa, dùng Long đởm tả can thang ‘Y tông kim giám/.

      Nếu thấy tai ù tai điếc, biểu hiện ià tai ù như đợt .sóng, họặc tai điếc không nghe đựợc, tâm phiên hay giận, khi giận thi bệnh tăng, đêm ngủ không vên, đau đàu chóng mật., mật đỏ, miệng đáng họng khô, chất lưỡị đỏ, rêu lựỡi vàng, mạch Huvền Sác; đó là do tình chí ức uất. uất mà hóa hỏa, hoặc đột ngột cáu giận hại Can, Can hỏa đi theo đường kinh mà vít láp tai. thanh khiếu bị che mờ gây nên bệnh; điều trị nên thanh Can tiết nhiệt, giáng hỏa thông khiếu, cũng dùng bài Long đởm tả can thang hợp với bài Thông khí tán (Ỵ Ịâm cải tháo.

     Nếu gặp trong bệnh xuất huyết, biểu hiện là thổ huyết, nục huyết, sác huyết đỏ tươi, đau sườn, đáng miệng,, khộ họng, tâm phiền hay giận, vật ‘vã không yên, mát đỏ nhiều ghèn, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền’Sác; đậy là tình chí làm hại Can, khí uãt họa hỏa, hỏa và khí thúc ép nhau, dương lạủ bị thương tổn mất chức nãng chứa huyết, huyết đi theo tính hỏa nhiệt, trào lên miệng mũi mà thành bệnh; Điêụ trị nện thanh Can tả hòa, mát hụyết càm huyết, vẫn dùng Long đởm tả can thang hợp với Tê giác địa hoàng, thang (Thiên kim phương)..

     Nếu Can hỏa thượng viêm gặp trong bệnh Bất mị, chứng trạng biểu hiện là mất ngủ, không nầm được yên, dễ bị kinh sợ, hãi nghe tiếng vang, hay cáu giận, tâm phiền hai mát đó. miệng đáng họng khô, kèm theo choáng váng tai ù, đại tiện bí kết. lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Hồng Thực, đó là do Can hỏa quấy nhiểu Tâm* thàn không ở yên chốn gây nên; điều trị nên thanh Can tả hòa

yên thần định chí. cho Uống bài Tả thanh hoàn (Tiều nhi dược chửng trực quyét!.

      Nếu gặp trong bệnh Thôn toan ‘nuốt nước chua), có biểu hiện hai bên sưbn và VỊ quản đau rát, ứa mửa ra nước chua, bụng bỉ đày ngựcHchó chịu, nhộn nhạo ợ hơi, miệng khô mà đáng, lưỡi đỏ mạch Huyền Sác, dây là do Can mất sự đièu đạt, khí uất hđa hỏa, hỏa nghịch phạm VỊ, VỊ mất hòa giáng gây nên; Điều trị nên theo phép tân khai khổ giáng, thanh Can tả hỏa, cho uống Tả kim hoàn (Đan Khê tâm pháp).

       Chứng Can hỏa thượng viêm gập trong bệnh Cuồng táo, biểu hiện các chứng trậng đau cfâu mất. ngủ, hai mát trợn trừng, mặt mát đo, nặng hơn thời cuông loạn võ tri, nhẩy rào trèo tướng, chửi bới liên tục không ngại ihân sơ, hoặc phá phách đồ vật. sức mạnh hơn người bỉnh thường, đại tiện bí kết, tiểu tiộn đồ rít. lưỡi đố rêu lưỡi vàng xốp, mạch Huyền Hoạt Sác, đõ là do cáu giận hại Can, khí hỏa hun đốt tân dịch thành đàm, đàm hoả úng thịnh quấv nhiễu lên trên, thần minh nghịch loạn gây nên; Điều trị nên thanh Can tả hỏa, quét đàm yên thần, dùng bài Đương qui lóng hội Hoàn (Tuyên minh phương luận) hợp với Mông thạch cổn đàm hoàn (Dưỡng sinh chủ luận ì.

Trong quá trình diễn biếp bệnh cơ của chứng Can hỏa thượng viêm, vỉ hỏa tà có đặc điểm bốc lên làm hao tân dịch, thường xuất hiện các kiêm chứng, như Can hỏa thượng viêm lấn lên Phế kim, sẽ xuất hiện các chứng trạng Can hỏa phạm Phế như khí nghịch ho khan, mặt đỏ hong khô, ho có lúc đau ỉan tỏa tới sườn, lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Huyền Sác v.v… vì tạng Can thê’ Ẩm. mà dụng Dương, nhờ vào sự tư dưỡng của Thận thù.Y; nếu Can hoả hun đốt ở trong lâu ngày, không những hun đỗt phàn âm của bản tạng rnâ còn liên lụy tới Thận thủy, sẽ xuất hiên CÂC rhứng trạng Can Thận ảm hư như choáng đầu khô mát, lưng đùi ê mòi. ngũ tâm phiền nhiệt, họng khô đau, lựỡi đỏ ít rdu, mạch Tê.

III Chẩn đoán phân biệt

      Chứng Đởm nhiệt với chứng Can hòa thượng viêm: Đởm phụ vào Can, khí uất thì hóa nhiệt, nhiệt là tiền đề của hỏa, hỏa là cái nhiệt nậng hdn, cho nên Đởm nhiệt theo đường kinh quấy rối lên trên, chủ yếu có các chúng trạng mát hoa, tai ù, họng khô, miệng đắng; tuy cũng có chúng đau đầu, mất đỏ, nhưng I không nghiêm trọng như chúng Gan hỏa thượng viêm, hơn nữa, Đởm chủ về quyết đoán, Can chủ về cáu giận, cho nên, loại bệnh trên thường có chứng thở dài; loại bệnh sau át có các chứng nóng nảy hay cấu giận.

      Chứng Can dtíơng thượng cang với Can hỏa thượng viêm: Chứng Can dương thượng cang phần nhiều do phần âm của Can Thận bất túc, thủy không hàm mộc, Âm hư không lấy gỉ để chế dương, đến nỗi Can dương bay bổng, xông nghịch lên trên; Còn chứng Can hỏa thượng viêm phần nhiều do tbãt tinh thái quá, khí uất hoá hỏa gây nên. Chúng Can dương thượng cang là Bản hư Tiêu thực, là hạ hư thượng thực; Chứng Can hỏa thượng viêm thì đơn thuần là thực chứng. Cơ chế bệnh, nguyên nhân bệnh của hai chứng này khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau.

Chứng Can dương thượng cang biểu hiện đau đàu phần nhiều là đau trướng, chóng mặt là kiểu choáng váng mát hoa, đồng thời còn có cảm giác hành động chao đảo loạng choạng, tai ù phần nhiều như ve kêu, dần dàn lại có từng cơn, lúc phát lúc ngìíng, nặng hơn thỉ cđ thể xuất hiện trúng phong hôn quyết và di chứng miệng mát méo lệch, nói nãng khó khản, bán thân bất toại, đó là âm hư ở dưới, dương mạnh ở trên, khí nghịch phong động gáy nên. Vì Can Thận âm khuy ở dưới, ngoại phù của Thận không được nuôi dưỡng, cho nén thấy các biểu hiện về âm hư như đùi gối mềm yếu, và các ehứng trạng gò má đỏ bừng hoặc mật đỏ nóng rát, chất lưỡi đỏ tía, hoặc ít rêu, mạch Tế Sác. Những chứng trạng đó đều là Can dương thượng viêm khồng co’ đày đủ.

Y vẩn trích dẫn

Tướng hỏa phụ vào Mộc, mộc uất thi hóa hỏa, là nuốt nước chua đau sườn, là cuồng, là nuy, là quyết, là bỉ, là ách ế, là mát huyết, đều là do Can hỏa xung kích vậỳ. Bệnh nhân họ Triệu, đau sườn trái, mạch tìồng tai ù, có lúc nôn, bụng trướng đau, đều do Can hỏa rìíng rực, ứ trọc không tiết giáng được, nên kim chế cơn giận và điều độ ăn ùống thì khỏi bệnh; phỏng theo bài Chi du thang: Sơn chi tẩm gìíng sạo, Hoàng liên tẩm nước Ngô thù sao, Bạch thược, Mầu lệ sống, Đan bì, Kim quất bì; uống vào là khỏi (Can khí – Loại chứng trị tài).

Can hỏã bốc cháy, lan tỏa kháp tam tiêu, trên dưới trong ngoài toàn thân đều bị bệnh, khó mà nói hết. Nếu mặt và gò má đỏ, kính quyết cuồng táo, lâm bỉ mụn nhọt, phiền khát chóng đói, nôn mửa, mất ngủ, huyết tràn ra trên và dưới, đều bởi nó (Tày Ktìẻ thu ỗc dạ thoại lục -i Vitang Húc Cao y thư lục chủng).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*