Chứng can dương hư

I.Khái niệm.

Can dương hư là tên gọi tắt cho những biểu hiện lâm sàng do Can khí hư phát triển thêm một bước đến dương hư sinh hàn, tác dụng của Can giảm xút dẫn đến bệnh cơ giảm xút toàn diện công năng của Can; bệnh phần nhiều đo sợ hãi quá mức hoặc ở lâu trong nghịch cảnh, làm cho dương khí lắng chìm hoặc bị trực trúng hàn tà điều trị không kịp thời làm tiêu mòn dương khí mà thành bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu ở chứng Can dương hư, về mặt tình chí là ưu uất hay sợ, rầu rĩ không vui. Về mặt cảm giác là mắt tối xầm, nhìn mọi vật không tỏ, cơ thể lạnh sợ lạnh, hạ sườn đau, chân không ấm, đầu mình tê dại, mặt thường tái xanh, tay chân nhợt và khô, dưới sườn trướng và cứng hoặc gân bị lạnh co rụt khó nắm được đồ vật. Về mặt khí quan yà công nâng thì tính dục thờ ơ, dương suy hoặc phòng sự không bền, hoàn lạnh, bộ phận sinh dục ẩm ướt, không mộng di hoạt tinh hoặc teo bộ phận sinh dục; ở phụ nữ thì bụng dưới lạnh đau, kinh nguyệt kéo dài hoặc giỏ giọt không dứt, đới hạ trong lạnh, tử cung bị lạnh không thụ thai, chất lưỡi nhạt rêu lưỡi tráng, mạch Trầm Tế Huyền Trỉ, tả quan Trầm Nhược.

Chứng Can dương hư thường gặp trong các bệnh Kinh khủng, Dương nuy, Giải tình,. Hư tổn. Cần chẩn đoán phân biệt các chứng Can khí hư, chứng Thận dương hư.

2.Phân tích

Chứng Can dương hư gặp trong lúc bị kinh khủng là vì Can chứa hồn, dương hư thi hồn không yên mà thần bị động, thần động thì Kinh; Đởm phụ thuộc vào Can mà biểu lý với Can, Can hư thỉ Đởm khiếp; Đởm khiếp thì khủng. Cho nên Can dương hư, thường Kinh và Khủng đồng thời xuất hiện. Trương Trọng Cảnh thường bảo Kinh khí vốn là vào Tâm và cũng thường làm tổn thương Can Đởm; Bản Thần thiên sách Linh Khu còn ghi chép: “Phương Đông sác xanh, thông vào tạng Can… phát bệnh thì thành Kinh hãi”; khi điêu trị, nện bồi bổ Can Đởm, giúp đỡ nguyên khí và kiêm trấn yên tâm thần, dùng phương Long sỉ thanh hồn tán hoặc Chân châu mẫu hoàn . Nếu sợ hãi quá nặng, lại nên thêm các thuốc bổ Thận. Bản thần .thiên sách Linh Khu có nói: “Can chứa huyết, huyết chứa hồn. Can khí hư thì Khủng, Can khí thực thì Nộ”. Tạng khí pháp thời luận sách Tố Vấn nói: “Can mắc bệnh thì đau lan tới bụng dưới, Khiến người ta hay giận. Can Khí hư thì mắt lờ mờ không trộng thấy gì, tai không nghe đựợc gì, hay sợ, cảm như có người sắp đến bắt”, Như vậy có thể coi Can dương hư sinh Khủng làm căn cứ biện chứng. Nhựng Khủng vốn làm hại Thận, Thận khai khiếu lên tai, Thận tổn thương thì không làm đầy đủ lên tai cho nên tai chảng nghe được gì, cho nên đây là chứng trạng chủ yếu để chữa kinh khủng do Can, ngoài những thuốc bồi bổ nguyên khi và bồi dưỡng Can Đởm cần tăng cường thuốc bổ Thận. – Chứng Can dương hư gặp trong bệnh Dương nuy, trong thời gian nam nữ gần gũi sinh hoạt, vì Can hư nên khí không tới kịp, dương đạo không thể hưng phấn mà thành bệnh; lại vì dương hư thì sinh ngoại hãn, bộ phận sinh dục của người bệnh bị lạnh và ẩm ướt, chi dưới không ấm, mạch Trầm tế Trì; lại có trường hợp lười biếng không chịu lao động, đởm khiếp nên thường biểu hiện sầu muộn do Can hư; Điều trị nên bổ Can tráng dương, cho uống bài Lộc nhung hoàn hoặc Ôn dương bổ Can tiễn gia giảm Can âm, Can huyết kiêm hư, gia Đương qui, Kỷ từ: Kiêm trung tiêu hư hàn, gia Nhân sâm, Can khương; Bụng dưới đau rút bỏ Mộc qua. gia Tiểu hồi hương, Lệ chi hạch; khí dồn lén gia Ngô thù, Xuyên tiêu).

Chứng Can dương hư gặp trong bệnh Hư tổn, có chỗ khác với âm hư là chủ yếu, cũng là chứng trạng rất thướng gặp trong bệnh Hư tổn; Trước hết, đấy là chứng Dương hư, hư tổn, gặp rất nhiều trong trường hợp ưu sâu tư lự làm thương thần hoặc làm việc mệt nhọc qúa độ làm hại sức, hoặc sắc dục quá độ mà khí cũng đi hết; hoặc phú bẩm nguyên dương bất túc lại bị hàn lạnh làm tổn thương. Thứ hai, đây là chứng Can dương hư, vị trí bệnh chủ yếu là ở Can chứ không ở Thận. Đương nhiên, phần Dương của Can sinh ra ở trong Thận, Thận hư cũng có thể ảnh hưởng tới hư dẫn đến chứng Can hư

Bài thuốc chủ yếu. chứng trạng chủ yếu của chứng Can dương hư trong bệnh Hư tổn. Đường Dung Xuyên có bàn tới trong sách Lục Kinh phương chứng Trung Tây thông giải, ộng nói: “Can dương hự thì tinh hàn Thận lạnh, Hoạt tinh mà không Mộng, nên uống Thiên hùng tán (Kim quỹ vếụ lược). Các chứng trạng khác thì gần giống với loại bệnh Lười biếng của chứng Can dương hư, có thể tham khảo.

Chứng Can dương hư gặp trong bệnh Giải đọa (Lười biếng) lấy bệnh ở Can làm gốc, và kiêm các chứng trạng khí hư cua Tỳ Vị làm ngọn. Biểu hiện gảy nên bệnh này là do dương khí hư suy, công dụng cùa Can không mạnh, khí không chỉ đạo được hỏa, Can hỏa không nhuận, nên có các chứng trạng móng tay chân khô nhợt, gân bị lạnh co rút, hay mỏi rời không cầm nám được lâu, mắt mờ. đởm khiếp sợ sệt, ưu uất, ý chí tiêu mòn, bộ phận sinh dục ẩm lạnh, rụt rè can thiệp chuyện đời; Nếu là biểu hiện phần ngọn của bệnh thì do Can dương hư mà Mộc không sơ Thổ, có các chứng trạng bụng đây không muốn ăn, tứ chi rã rời, thiểu khí biếng nói, Bệnh lười biếng kéo dài không khỏi dễ đi vào con đường hư tổn, nên điều trị sớm, chủ yếu nên dùng phép Ôn dương bổ Can, hỗ trợ phép ích khỉ phù Tỳ, có thể dùng phương kinh nghiệm. Ôn dương bổ Can tiễn gia Sâm – Truật – Kỳ – Thảo – Thang – Sài – Khương .;, Phòng là những thuốc thăng dương ích khí, tùy chứng mà gia giảm

Chứng Can dương hư nếu gặp ở bệnh nhân là phụ nữ, là vì phụ nữ lấy Can làm tiên thiên, Dương khí của can đã hư, tất nhiên Xung Nhâm cũng hư tổn, cho nên biểu hiện lâm sàng có chứng Kỳ kinh không điều hòa. Như khí hư không vận chuyển được huyết để hành kinh, có thể đấn đến hành kinh muộn hoặc bế kinh, dưới sườn và bụng dưới lạnh đau, lâu ngày Tử cung nhiễm lạnh không thụ thai được, đới hạ trong và lạnh. Như khí không phát huy tác dụng thăng đề thống nhiếp, Can không chứa huyết có thể dẫn đến kinh nguyệt lâm li không dứt; Điều trị phụ nữ mắc chứng Can dương hư, nên coi trọng ôn dưỡng huyết khí, điều bổ kỳ kinh, tùy chứng mà chọn dùng các bài Ôn kinh thang (Kim quỉ yếu lược) Noãn cung hoàn (Chứng trị chuẩn thằng). Chi cần gia giảm thích hợp đều hiệu nghiệm.

3. Chẩn đoán phân biệt

Chứng Can khí hư với chứng Can dương hư, cả hai đều là Can bệnh, đều thuộc Hư chứng, lại đều cổ những chứng trạng công nảng và tác dụng suy thoái, vì thế rất dề lẫn lộn, cần phải nám vững chỗ giống nhau và chỗ khác nhau, bỏ cái giống nhau thì cái khác nhau sẽ hiện ra. 0 đây, trước hết giới thiệu chỗ giống nhau: •

Can chủ Cân, dương khí hư thì gân mất sự nuôi dưỡng, sẽ cảm thấy mệt mỏi, lười nhác không chịu nổi mệt nhọc.

Can là cương tạng, Đởm phủ phụ thuộr vào nó. Dương khí hư thì Đởm khiếp hay sợ hãi, ưu uất không vui.

Can chứa huyết, dương khí bất túc để vận hành huyết làm cho khỏe gân, phần nhiều thấy đầu mình tê dại, chân tay không ấm.

Sườn là khu vực quản lý của Can, dương khí hư thì mất sự sơ tiết, đa số có chứng khí trệ Đởm uất, dưới sưòn trướng và cứng. Can mộc dương khí hư suy không sơ thổ được sẽ dẫn đến Thổ bị úng tác, Tỳ bị ngăn trệ làm cho đầy bụng kém ận.

Can khai khiếu lên mát, dương khí bất tức nên không thồng đạt lên mát, sẽ làm cho mát trông.không tỏ, hoặc mát tối xàm.

Can chủ về gân. mạch của Can vòng quanh bộ phận sinh dục, dương khí hư, tướng hỏa suy thoái cho nên dương khí không đỉ tối, thường làm cho dương đạo của người ta không mạnh, sinh lý bạc nhược.

Mạch Tả quan ở thốn khẩu đê’ chẩn đoán bệnh ở Can, nếu dường khí ở Can hư yếu, thi mạch ở Tả quan thường Trầm Tế mà Huyền.

Phụ nữ lấy Can làm tiên thiên, dương khí ở Can hư yếu, Xung Nhâm bị hư tổn, phần nhiều làm cho hành kinh ra chậm chạp kéo dài hoặc không dứt điểm, vùng lưng và bụng dưới lạnh đau.

Nêu ra sự giống nhau của hai chứng đại khái là như thế, cân cứ vào đó bước đầu có thể khẳng định được tình hình của bệnh,

bệnh không là Can khí hư thì là Can dương hư

Sau đó bàn đến chỗ khác nhau, xem xét ctí hay không có các 1‘hứng trạng thuộc dương hư sinh hàn, sẽ có thể tiến một bước dế nhận định chúng thuộc khí hư hoặc dứơng hư. Một là triệu chứng cơ thể lạnh và sd lạnh, mdng tay chân tráng nhợt. Hai là hai hòn-ca©* hoàn đều lạnh, dương nuy không cường, hoặc ngoại hình bộ phận sinh dục tẹo quát, tinh hoạt không do mộng tinh, khó mà sinh đẻ. Ba là mạch có hiện tượng Trì, hoặc Tả quan Trầm Nhược. Những hiện tượng Hàn trên đâv không cần thiết đầy đủ, nhưng nếu thấy một, hai chứng là có thể nhận định là Dương hư. Còn như Truơng Cảnh Nhạc nói bệnh thấy Hư nhược mà không có chứng Nhiệt, đó là chứng hậu của Dương hư, Nếu lại coi Khí hư cũng như Dương hư thì đó là kiến thức phiến diện, rất Xã lạ không chấp nhận được.

Chứng Thận dương hư với chứng Can dường hư. Thận với Can có mối quan hệ tương sinh, thông thường Thận thủy tu dưỡng Can mộc, khi bị bệnh có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Vấn đề là làm sao cả hai chứng đêu là dương hư ở hạ tiêu, lâm sàng đều có thể xuất hiện những chứng trạng cơ thể lạnh, tay chân quyết lạnh, mệt nhọc lười nhác, tinh lạnh dương nuy, hoạt tinh không mộng, đau lưng, đau bụng V.V.. và lưỡi nhạt rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Trì hoặc Trầm Nhược; Nếu biện chứng không tinh, rất dễ đem chứng Can dương hư chẩn đoán sai lầm là chứng Thận dương hư. Để phân biệt vấn đề này, có 3 điểm chủ yếu: (1) Chứng Thận dương hư, gốc bệnh ở Thận, Thận chứa tinh, chủ xương, sinh tủy, là chức quan tác cường, khai khiếu ra tai, lung là phủ của Thận, Thận lại biểu lý với Bàng quang, cho nên Thận bệnh cho đến dương khí hư, ngoài những mạch chứng nói ở trên còn có thể thấy những đặc trưng khác của Thận hư như tảo tiết, lưng gối mềm yếu, tai ù như ve kêu, thính lực giảm, tiểu tiện nhiều lần giỏ giọt không dứt; ban đêm đi tiểu nhiều lần, mạch hai bộ Xích vô lực, xem ra không giống với chứng Can dương hư. (2) Chứng Can dương hư. gốc bệnh ở Can, Can chứa huyết, chủ về gân, khai khiếu lên mặt, sườn là nơi Can quản lý; Can lại biểu lý với Đởm, cho nên bệnh Can đã đến tình trạng dương khí hư, ngoài những mạch chứng cộng đồng như đã nói ở trên, cũng biểu hiện những đặc thù về Can hư như mặt tối xầm, nhìn không tỏ, dưới sườn trướng rắn, đau mình tê dại, gân bị lạnh co rút; mạch tá quan Trầm Huyên hoậc Trầm Nhược. Căn cứ vào đó có thể phân biệt sự khác nhau với chứng Thận dương hư. (3) Trên đây đã nói sự giống nhau giữa hai chứng hoặc những chứng trạng tương tự, cũng có thể qua kinh nghiệm để chẩn đoán phân biệt như: Chứng thể trạng lạnh và chân tay quyết lạnh, mệt mỏi quá sức của Thận hư thường có kiêm chứng sắc mặt trắng nhạt, hoặc vùng mặt phù thũng nhẹ, lưng gối mềm yếu, cảm giác hưng phấn đột ngột. Còn chứng sợ lạnh và chân tay không ấm của chứng Can hư, mặt thường không nhợt không sưng mà hơi tái xanh, đồng thời các móng tay chân khô nhạt, không có sác máu, trong trạng thái lười nhác cpn thấy cả các hiện tượng đởm khiếp, ưu uất, rầu rĩ không vui v.v

Chứng tinh Lạnh dương nuy do Thận-hư, trước tiên là do Thận khí không bền, có thể cường dương nhưng không cường được dẻo dai dần dà làm cho Thận khí không bền mà làm cho hoạt tinh, rồi tảo tiết rồi sau cùng mới đến Nuy, không sánh được với chứng dương nuy do Can hư, đơn thuần do Can khí không đến, trước hết còn cường dượng nhưng không cứng, bộ phận sinh dục ẩm lạnh, rồi hoàn toàn dẫn đến Dương nuy, không cường dương, không cần thiết kinh qua các giai đoạn Thận khí không bền hoặc tảo tiết.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*