Vị thuốc xích thạch và từ thạch

XÍCH THẠCH CÙNG TỪ THẠCH

Công hiệu khác nhau

Giả thạch cùng từ thạch đều là những vị trọng trấn có công dụng: bình can, tiềm dương, chấn kinh, an thần, giáng nghịch.

Nhưng giả thạch sắc đỏ, thiên vào can và tâm bào, cũng vào huyết phận, công dụng thiên về chấn túc can phong, chấn sung, bình suyễn, giáng nghịch đầy đủ, lương huyết chỉ huyết. Từ thạch sắc đen, thiên vào thận, can, chuyên bổ thận, ích tinh, bình can, thu liễm dương (tiềm dương), nạp khí, bình suyễn, chấn kinh, an thần.

Chủ trị khác nhau.

1   – Giả thạch chấn can phong.

Từ thạch chữa tai ù, tai điếc rất hay.

Giả thạch là yếu dược để chấn tức can phong.

Từ thạch bổ ích thận tinh, thu liễm dương ở can và giữ dược dương ở can. Nên thích ứng chữa can thận âm hư, chữa dương phù rất hay – bệnh dương phù sinh các chứng nhức đầu, chóng mặt, mắt hoa, tai ù (có tiếng kêu), tai điếc.

Như “Thánh tễ tổng lục” – bài từ thạch tửu (từ thạch, mộc thông, sương hồ tửu tẩm từ 3 đến 7 ngày) chữa tai ù, tai điếc hoặc tai thường lúc nào nghe như gió thổi, suối reo.

2   – Giả thạch chủ khí nghịch, suyễn, khái.

Từ thạch chủ thận hư không nạp được khí, sinh ho suyễn.

Giả thạch chủ trị khí nghịch sinh ho, suyễn (đã nói ở mục mông thạch cùng giả thạch).

Từ thạch bổ thận, nạp khí, bình suyễn, dùng chữa chứng thận hư không nạp được khí, chính là do khí hư sinh ho, suyễn. Như bài từ thạch luyện lục vị hoàn.

3   –   Giả thạch chủ trị thổ huyết, nục huyết, tiện huyết băng Từ thạch chủ trị âm suy, di tinh, thoát giang.

Giả thạch lương huyết, chỉ nhiệt, chủ thể, nục, tiện, bỏng đi xuống nên hạ được bệnh thở gấp, đã dẫn được hỏa quy nguyên thì bổ cố được thận, mà ích tinh khí tinh thêm đầy. Cho nên chủ yếu no chữa bệnh dương suy, di tinh – thận hư không cố nên sinh thoát giang. Từ thạch vừa chấn giữ, vừa kéo co lại, lại vừa thăng đề, và cố thủ. Thoát  giang không thu lại được, nên thường thăng đề lên, dùng nó để co lại là rất hay. Cho nên nó là vị thuốc chủ trị thoát giang.

Như “Tam nhân phương” – bài từ thạch hoàn (đoàn từ thạch – tức là đun từ thạch nung lên, đoàn long sỉ – nhục thung dung, phục linh, mạch môn đông, viễn chí, tục đoạn, sinh thạch chi, lộc nhung, can địa hoàng, sao phỉ tử, bá tử nhân, đan sâm) dùng rượu ấm mà điều phục để chữa bệnh tình cực hư, bắp chân teo lại, tim đập mạnh, sợ hãi, mộng tinh, tiết tinh, sau khi đái lại di lịch (đái không bao giờ hết) – đái ra chất trắng – bạch trọc. Như vậy là dương hư quá – dương suy – bụng dưới đau cấp.

“Trực chỉ phương” – bài từ thạch tán (Từ thạch cho vào dấm, nước sôi 7 lần, tán mạt) lúc đói uống với nước cơm, hoặc rượu cũng được, để chữa bệnh thoát giang.

4   –   Giả thạch chữa chứng y khí, nôn mửa, phản vị, nghẹn, cách.

Từ thạch chuyên chấn kinh, an thần, ích thận, bình can – dùng chữa các bệnh: can hỏa bốc lên làm nhiễu loạn tâm thần sinh các chứng tim đập mạnh, sợ hãi, mất ngủ, điên giản – như “Bị cấp thiên kim yếu phương” – bài thần khúc hoàn (thần khúc, từ thạch, chu sa) trị hai mắt hoa, mờ, trông mọi vật không rõ, tim đập mạnh, sợ hãi, mất ngủ, tai ù, tai điếc, cùng chữa chứng điên giản.

Đặc thù sử dụng khác nhau.

“Bách nhất viên phương” chữa bệnh đau răng: giả thạch, kinh giới, đều nghiền nhỏ để xỉa vào răng, dùng kinh giới đun nước súc miệng. “Phổ tế phương” chữa bệnh “nha – áp” (mồm há hốc, quát mắng lung tung) nằm ngủ không yên, thổ chu (giả thạch mạt không kể nhiều ít, tán thật nhỏ, dùng dấm ngày ngày dùng một hai lần.

Từ thạch chữa thoát giang, đồng tử tán to ra. Như “Thiên kim phương” dùng da  con nhím tán nhỏ chữa chứng giang môn thoát xuất (dom lòi ra ngoài) hoặc vì dùng sức mạnh quá hoặc nhân có bệnh tiết nên không thu lại được. Dùng từ thạch 4 lạng, quế tâm một thước, da con nhím một miếng. Đều tán nhỏ, mỗi lần uống một thìa.

Phiên kim từ chu đan trị chứng thần thủy khoan đại tiện tán – Dùng từ thạch, thần sa, thần khúc – “Phụ khoa ngục xích” – thiết phân tán, đương quy, từ thạch, mỗi thứ 5 đồng – thiết phấn gồm 3 đồng tán mạt, uống với nước để chữa bệnh sa tử  cung không thu lại được.

“Dương y đại toàn” – tán đỉnh cao. Từ thạch nghiền nhỏ lấy 14 củ hành giã vắt lấy nước, cho một ít mật quấy đều, bôi vào chỗ định băng.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*