Vị thuốc mã bột và sơn đậu căn

Công hiệu khác nhau

Mã bột và sơn đậu căn đều có khả năng thanh nhiệt, lợi yết hầu. giải độc, tán kết, tan uất nhiệt, kiêm chỉ huyết, liễm sang, dùng chữa các bệnh phổi, huyết.

Sơn đậu căn đắng, hàn vào tim, phế, đại tràng kinh bên trên thì thanh nhiệt tâm phế, bên dưới thì giáng hỏa ở vị, tràng, kiêm táo thấp, sát trùng, dùng chữa nhiều về tâm phế tràng và vị.

Chủ trị khác nhau

1 –  Mã bội chủ trị yết hầu tê, đau, ho, đầu đại ôn.

Sơn đậu căn chủ trị lợi răng thũng đau.

Mã bột thanh nhiệt, giải độc, lợi yết hầu. Dùng chữa ôn nhiệt, độc tà gây bệnh yết hầu tê liệt, ho suyễn, đại đầu ôn.

Như “Kinh nghiệm lương phương” Trị chứng cuống họng bị bế cấp. Dùng mã bột, diêm tiêu tán mạt, thổi vào trong bụng.

“Phổ tế phương” – bài mã xí bột hoàn (mã bột tán nhỏ dùng mật hoàn bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 20 viên chữa bệnh ho lâu ngày. Phổ tế tiêu độc ẩm, chữa bệnh đại đầu ôn, đùng mã bột phối hợp với hoàng cầm, hoàng liên, huyền sâm, sài hồ.

Sơn đậu căn, trên thanh nhiệt ở tâm, phế, cũng dùng chưa ôn nhiệt tà độc gây cổ họng đau, và ho suyễn, lấy lẽ giáng hỏa ở tràng vị để chữa, táo thấp, sát trùng, nên nó cũng dùng làm thuốc sát trùng răng đau.

“Bị cấp phương” trị răng đau, dùng sơn đậu căn một miếng ngậm vào chỗ đau.

2 – Mã bột chủ trị thổ huyết, nục huyết, hạ huyết, đến ngoại thương xuất huyết.

Sơn đậu căn chủ trị tả lỵ, bệnh trĩ, hoàng đảm.

Mã bột chỉ huyết, dùng chữa các chứng thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, ngoại thương suất huyết.

“Thánh huệ phương” trị bệnh có mang thổ huyết, nục huyết không khỏi. Dùng mã bột tán nhỏ, dùng nước cháo uống nửa đồng.

“Toàn quốc trung thảo dược hối biên” trị hỗn hợp trĩ, sau khi cắt dọn ở lỗ đít, máu ra, dùng mã bột, hải miên từ 2 đến 3 miếng đắp vào miệng chỗ cắt; chữa niêm mạc trực tràng xuất huyết nhiều: dùng mã bột bọc vào vải mỏng buộc vào chỗ niêm mạc trực tràng chảy máu; Ngoại thương suất huyết: dùng mã bột phấn sát vào chỗ đau rồi băng lại.

Sơn đậu căn giáng hỏa ở tràng, vị, thanh nhiệt, táo thấp dùng chữa tràng, vị nhiệt ủng, thấp nhiệt ủng trệ dẫn đến các bệnh hạ lỵ, bệnh trĩ, hoàng đảm.

Như “bị cấp phương trị chứng xích, bạch lỵ, dùng sơn đậu căn tán nhỏ hoàn mật, uống lúc đói.

Trị năm chứng trĩ cũng dùng sơn đậu căn mài ra nước để chữa. Trị năm chứng cấp hoàng cũng dùng sơn đậu căn uống lúc đói.

3 –  Mã bột trị ung thư

Sơn đậu căn trị ghẻ lở, trùng độc cắn bị thương.

Mã bột thanh nhiệt giải độc liễm sang, thích ứng dùng chữa nhiệt độc, ung thư. Như “ngoại khoa lương phương’’ dừng mã bột tán nhỏ như phấn, hòa với dấm chua đổ vào cho tiêu hết mụn nhọt, có thể dùng thêm một ít liên kiều sắc nước uống.

Sơn đậu căn thanh nhiệt, táo thấp, sát trùng. Nên dùng chữa thấp nhiệt, ghẻ lở đến bị trùng độc cắn bị thương.

Như “bị cấp phương” trị đầu lở, dùng sơn đậu căn tán mạt hòa đâm, mỡ lơn đổ vào. Chữa chó đại cắn, rắn cắn, nhện độc cắn, dùng sơn đậu căn tán nhỏ, hòa nước đắp vào.

Đặc thù sử dụng khác nhau 

Lâm sàng báo : với thủ thuật ngoại khoa dùng mã bột cầm máu.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*