Triệu chứng và điều trị Herpes sinh dục

I. Đại cương  

Herpes sinh dục là một nhiễm virus lây truyền qua đường tình dục có đặc điểm là nhiễm trùng tiên phát có mụn nước thành nhóm cụm ở vị trí lây nhiễm, hạch lân cận sưng và tiến triển có đợt tái phát mọc mụn nước ở vị trí cũ.

     Từ đồng nghĩa: Herpes progenitalis, Herpes genitalis, genital herpes simplex.

     1. Dịch tễ học và căn nguyên:

Bệnh hay gặp ở tuổi thanh niên, người lớn tuổi hoạt động tình dục mạnh.

Căn nguyên: Herpes simplex virus ( HSV ) type 2 > type 1. Hiện nay ở Hoa Kỳ 30% các ca Herpes sinh dục mới là do HSV- 1.

Sự lây truyền: thường do tiếp xúc da- da hoặc niêm mạc- niêm mạc.

Phần lớn bệnh nhân bị loét sinh dục là Herpes sinh dục, giang mai hoặc hạ cam. Bệnh cũng có nguy cơ tăng cùng với nhiễm HIV.

     2. Sinh bệnh học:

Sự lây truyền và nhiễm HSV xảy ra qua tiếp xúc gần gũi với người bệnh. Người bệnh reo rắc virus qua niêm mạc, hoặc chất tiết, HSV xâm nhập qua da và niêm mạc gây nhiễm trùng tiên phát tại chỗ lây nhiễm, sau đó đi ngược lên thần kinh cảm giác ngoại biên ( thần kinh cảm giác hoặc thần kinh tự động ), vào hạch thành dạng ẩn (vùi). Dạng ẩn có thể xuất hiện sau cả hai dạng nhiễm virus có triệu chứng và nhiễm virus không triệu chứng.

https://www.youtube.com/watch?v=Y2Tkc0K_ywQ

II. Lâm sàng:

Thời kỳ ủ bệnh 2-20 ngày (thời kỳ ủ bệnh trung bình là 6 ngày).

     1. Triệu chứng:

50-70% bệnh nhân bị nhiễm HSV-2 thì không có triệu chứng lâm sàng hay chỉ có triệu chứng tối thiểu và không biết là bị nhiễm trùng.

Herpes tiên phát: thường kèm sốt, nhức đầu, khó chịu, đau cơ, rộ lên trong vòng 3-4 ngày tiếp theo. Tuỳ thuộc vào vị trí: đau, ngứa, đi tiểu khó, tiết dịch niệu đạo và âm đạo là triệu chứng thường gặp.

Hạch bẹn sưng đau xuất hiện vào tuần lễ thứ 2, thứ 3. Đau sâu ở tiểu khung ( hố chậu) kết hợp với hạch hố chậu. Một số ca herpes sinh dục thời kỳ đầu biểu hiện lâm sàng rầm rộ phải vào nhập viện.

Herpes sinh dục tiên phát: đầu tiên thấy một mảng đỏ, tiếp ngay sau đó nổi cụm mụn nước, mụn nước có thể thành mụn mủ, rồi thành trợt hình đa cung, đóng vảy tiết.

Trợt có thể có thể tạo thành loét, phủ vảy tiết, ẩm ướt và sau đó sẽ lành trong vòng 2-4 tuần. Sau khi khỏi thường không gây giảm sắc tố và không có sẹo.

Herpes sinh dục tái phát: tổn thương tương tự như là herpes sinh dục tiên phát, nhưng thường giảm vẩy tiết. Thông thường là một mảng đỏ 1-2cm, xung quanh có mụn nước, mụn nước vỡ thành vết trợt, khỏi sau 1-2tuần.

Triệu chứng toàn thân có thể bị viêm màng não do HSV-2, có thể xuất hiện ở herpes sinh dục tiên phát hoặc tái phát.

+ ở nam giới herpes tiên phát thường ở quy đầu, bao quy đầu, thân dương vật, rãnh quy đầu, hạ nang, đùi và hông. Herpes tái phát hay gặp ở thân dương vật, quy đầu và hông.

+ ở nữ giới: herpes tiên phát hay gặp ở môi lớn, môi bé, đáy chậu, mặt trong đùi. Herpes tái phát găp ở môi lớn, môi bé và hông.

+ Herpes hậu môn và trực tràng: xảy ra ở nam giới do giao hợp đồng giới ( thường do HSV-1 ) có đặc điểm là mót rặn, đau hậu môn, viêm trực tràng, tiết dịch và loét trong vòng 10 cm trong ống hậu môn.

     2. Xét nghiệm và khám nghiệm đặc biệt:

+ Kính phết Tzanck: lấy dịch trong mụn nước, hoặc cạo nền mụn nước làm phiến đồ mỏng trên lam kính, để khô, nhuộm giêm sa hoặc Whight. Kết quả dương tính là: thấy tế bào keratinocytes khổng lồ và nhân khổng lồ. Dương tính gặp ở 75% các bệnh nhân sớm hoặc tiên phát, tái phát.

+ Phát hiện kháng nguyên HSV: bằng phương pháp kháng thể huỳnh quang trực tiếp ( DFA) ( direct fluorescent antibody) là một phương pháp nhạy cảm và đặc hiệu nhận dạng HSV-1 và HSV-2 ở trên phiến đồ dịch mụn nước hay nền vết loét.

+ Nuôi cấy virus: chứng minh sự hiện diện của virus  trong vòng 1 – 10 ngày, dương tính 70% các ca đang có tổn thương.

+ Tìm kháng thể HSV: Các kháng thể này xuất hiện ở thời kỳ cấp tính và thời kỳ hồi phục trên các bệnh nhân éc pét sinh dục tái phát. Có thể loại trừ Herpes sinh dục nếu không có kháng thể HSV. Phát hiện kháng thể bằng kỹ thuật Western blot.

+ Mô bệnh học: thấy thoái hoá biểu bì hình cầu và hình lưới, tăng gai, tiêu gai và mụn nước trong biểu bì, thể vùi trong nhân, tế bào sừng khổng lồ đa nhân, mụn nước nhiều ngăn.

III. Chẩn đoán:

1. Chẩn đoán quyết định: Dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng kính phiết Tzanck, nuôi cấy virus hoặc DFA.

2. Chẩn đoán phân biệt: Săng giang mai, ban đỏ nhiễm sắc cố định, hạ cam, trợt do lậu, viêm nang lông , Pemphigus, Pemphigoid.

 

IV. Điều trị và dự phòng:

      1. Điều trị:

+ Thời kỳ lâm sàng đầu tiên của Herpes sinh dục:

– Dùng Acyclovir  200 mg uống 5 lần trong ngày ( cách 3 giờ uống 1 lần ). Dùng trong 7 – 10ngày hoặc đến khi bệnh thuyên giảm, hoặc :

– Valacyclovir 500 mg uống hàng ngày, hoăc:

– Famcyclovir 150 mg uống / ngày.

– Acyclovir không tiêu diệt virus thể ẩn, không ngăn được tái phát sau khi ngừng thuốc.

– Có thể dùng Acyclovir để phòng tái phát bằng cách uống liều duy trì kéo dài, nhưng có thể gây nên chủng virus kháng Acyclovir.

+ Những trường hợp bệnh nặng ( viêm não éc-pét, viêm phổi éc- pét, viêm gan éc – pét ) nên điều trị nội trú và chỉ định Acyclovir đường tĩnh mạch.

+ Trường hợp Herpes có viêm trực tràng dùng Acyclovir là cần thiết với liều 400 mg uống 5 lần trong 1 ngày, dùng 1 đợt 10 ngày hoặc cho đến khi khỏi.

 

     2. Phòng bệnh :

+ Phòng lây bệnh qua đường tình dục: dùng condom, phòng bệnh bằng uống Acyclovir kéo dài ngày.

+ Phòng bệnh qua giai đoạn chu sinh: nhiều chuyên gia khuyên làm test huyết thanh HSV- 1 và HSV- 2 ( Western blot ). cho lần khám thai trước sinh đầu tiên. Trẻ em sinh ra từ người mẹ bị nhiễm HSV không triệu chứng sẽ làm giảm cân nặng thai và tăng nguy cơ trẻ đẻ non.

+ Một số điểm cần chú ý:

– Bệnh nhân nên tránh giao hợp khi đang còn tổn thương.

– Cần phân biệt với loét hạ cam và loét giang mai.

– Cần xét nghiệm nhiễm HIV cho tất cả các trường hợp éc pét sinh dục.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*