Thạch lựu bì và Xuân căn bì

THẠCH LỰU BÌ CÙNG XUÂN CĂN BÌ

Công dụng khác nhau

Thạch lựu bị cùng xuân căn bỉ đều là những vị thuốc sáp tràng, chỉ tả, chỉ lỵ, chỉ huyết, sát trùng.

Nhưng thạch lựu bì chua, sáp, tính ôn, công dụng vì xanh nên thu, liễm, cố sáp, lực mạnh cho nên chủ hư hàn tả lỵ, băng đới các chứng.

Xuân căn bì đắng sáp, tính hàn, thiên về thanh nhiệt, táo thấp, mà cố sáp thì lực không bằng thạch lựu bì. Cho nên dùng chữa thông nhiệt, tả lỵ đới hạ, cho đến huyết nhiệt băng lậu, trĩ.

Chủ trị khác nhau

1  – Thanh lựu bì chủ tỳ hư, tràng nhuận tả lỵ không khỏi

Xuân căn bì chủ thấp nhiệt tả lỵ.

Thạch lựu bì toan, sáp, tính ôn, cố sáp lực mạnh nên dùng chữa tỳ hư, tràng hoạt tả, lỵ, bất chỉ thoát giang các chứng.

Như “bản thảo cương mục” trị cửu lỵ cửu tả dùng trần thạch lựu bì tạc giả (dùng một vị thạch lựu bì) sấy khô tán mạt mỗi lần dùng 2 đồng với nước cơm – Bệnh đã 2-3 năm hoặc 2-3 tháng – dùng đều khỏi cả)

“Y sao loại biên” trị thoát giang, dùng thạch lựu bì, trần bích thổ (đất vách) thêm một ít bạch phàn, đun nước để rửa, lại gia ngũ bội tử sao nghiền nhỏ đắp lên trên.

Xuân căn bì công dụng thiên thanh nhiệt, táo thấp kiêm thu liễm. Cho nên các bệnh thấp nhiệt, tả lỵ phải dùng đến.

Như “Tỳ vị luận” Kha lê nặc hoàn (kha tử, xuân căn, bạch bì, mẫu đinh hương) trị hưu túc lỵ, đêm đi luôn không có hạn độ nào, mùi tanh thối không thể tới gần được, rốn, bụng đau kịch liệt đã dùng nhiều thuốc không khỏi. Trọ chứng thấp nhiệt tả lỵ phối với với địa du cũng hay.

2  – Thạch lựu bì dùng chữa hư hàn, băng lậu, đái máu

Xuân căn bì chữa nhiệt thấp hạ huyết, trĩ huyết

Thạch lựu bì ôn sáp, lực mạnh – nên dùng cho các bệnh hư hàn băng lậu hạ huyết bất cố.

Như ‘’sản kinh phương” thạch lựu bì thang (an thạch lựu bì, đương quy, a-giao, thục ngải) trị chứng có mang huyết ra nhiều không dứt, bụng đau. Cũng dùng thạch lựu bì phối hợp với hoàng kỳ, đương quy, tiên hạc thảo.

Xuân căn bì thanh nhiệt, táo thấp, kiêm cố sáp.

Dùng chữa các bệnh thấp nhiệt dẫn đến các chứng băng huyết, hạ huyết.

Như “y học nhập môn” bài cố kinh hoàn (hoàng kỳ, bạch thược dược, quy bản, xuân căn, bạch bì, hoàng bá, hương phụ) trị chứng kinh nguyệt ra quá nhiều đến băng trung, lậu hạ, sắc máu thâm, hồng, lại có máu khối.

“Chứng trị chuẩn thằng” xuân bì hoàn (xuân căn, bạch bì tán mạt, dùng dấm hồ viên to bằng hột ngô. Mỗi lần dùng 70 viên, lúc đói uống với nước cơm, trị chứng băng, lậu, hạ huyết, đau bụng.

3  – Thạch lựu bì chủ hư hàn đới hạ lâu ngày

Xuân căn chủ trị thấp nhiệt xích, bạch đới hạ

Thạch lựu bi, tính ôn, vị chua, lại sáp – ôn liễm tác dụng mạnh. Nên chữa được hư hàn đới hạ không đứt. Có thế dùng vị này phối hợp với đẳng sâm, bạch truật, phục linh, lộc giác sương, ba kích thiên.

Xuân căn bì thanh nhiệt táo thấp – dùng chữa thấp nhiệt xích bạch đới hạ.

Như “tế âm cương mục” bài tứ thần hoàn (hương phụ, thương truật, xuân căn bì, sa nhân) trị đới hạ. Thắng thấp hoàn (thương truật, bạch thược, hoạt thạch, xuân căn bì, can khương, địa du, chỉ xác, cam thảo) trị xích bạch đới, nhân vì ôn nhiệt thắng mà sinh đới hạ.

4  – Thạch lựu bì dùng chữa bệnh giun đũa, các loại giun quấy nhiễu

Xuân căn bì trị giun đũa, trích trùng, a mễ ba trùng

Thạch lựu bì sát trùng, chủ yếu dùng trị giun đũa, giống sán trong ruột. Có thể dùng mỗi vị, cũng có thể phối hợp với binh lang khổ luyện, hoặc các vị sát trùng khác càng hay.

Xuân căn bì chủ trị giun đũa – âm đạo trích trùng – Dùng một vị xuân căn bì cùng được hoặc phối hợp với binh lang, sử quân tử, sa sàng.

Đặc thù sử dụng khác nhau

“Trừu hậu phương” trị đinh, thũng ác độc, lấy kim thích 4 bên, đắp lựu bì lên trên chỗ sang độc, cứu vào mặt thấy đau làm mức độ, lại lấy lựu bị đắp lên, làm cho thấm đến bên trong suốt đêm, tự nhiên cái dậu (liên căn) sẽ ra.

“Quý châu thảo dược” trị bị bỏng lửa – Dùng thạch lựu bì một lượng vừa phải, nghiền nhỏ, lấy dầu vừng hòa rồi bôi lên chỗ bỏng.

Lâm sàng báo: Dùng thạch lựu bì sao muối, tán nhỏ, lấy vải bọc, đắp vào trong tai chữa chứng mụn trong tai có mủ nhất định khỏi.

“Sầm nam thái dược lục” trị chứng báng trong bụng thành khối: Hương xuân bạch bì 2 cân (băm nhừ) cho vào nồi đổ nước đun kỹ, bỏ bã đun tiếp cô lại thành cao. Trước hết lấy gừng sát vào bụng cho sạch bụi bẩn và chất mỡ, rồi dùng lửa đun nóng thuốc, dán vào chỗ trên khối báng, lúc đầu thấy hơi đau, nửa ngày sau hết đau và khối báng cũng tự tiêu.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*