Tang thầm và long nhãn nhục

TANG THẦM CÙNG LONG NHÃN NHỤC

Công hiệu khác nhau

Tang thầm cùng long nhãn đều là những vị thuốc tư bổ lương phẩm, đều có công dụng bổ huyết ích hư. Nhưng tang thầm bổ huyết lại tư âm. Công thiên về tư bổ can thận, tính hay tức phong, lợi thủy. Chữa can, thận, âm huyết không đủ thường dùng vị thuốc này.

Còn long nhãn nhục bổ huyết, ích khí, công dụng thiên về bổ tâm, tỳ, an thần. dưỡng huy. Trị tâm khí huyết bất túc thường phải dùng vị thuốc này.

Chủ trị khác nhau

1  –   Tang thầm chủ trị can thận, âm khuy, khuy nhược, đầu vựng, nhãn hoa, trúng phong, râu tóc sớm bạc.

Long nhãn nhục chủ tâm, tỳ khí huyết bất túc, tim đập mạnh sợ hãi, mất ngủ, hay quên.

Tang thầm tư bổ can thận, âm huyết. Chủ trị âm huyết khuy hư, đầu nhác, mắt hoa, trúng phong râu tóc sớm bạc. Thường dùng phối hợp với cúc hoa, câu kỷ tử, nữ trinh tử, tảo liên thảo để chữa đầu vựng, mắt hoa. Lại phối hợp với hắc chi ma, huyền sâm, sinh  địa, linh từ thạch, thiên ma, câu đằng để chữa trúng phong. Cùng với thủ ô, hắc chi ma,  nữ trinh tử chữa râu tóc sớm bạc.

Long nhãn nhục dưỡng huyết ích khí, bổ ích tâm tỳ an thần, kiện lưng. Cho nên chủ trị các chứng tâm tỳ, huyết khí khuy hư gây nên tâm qúy, mất ngủ, hay quên.

Như “Hiệu chú phụ nhân lương phương” Quy tỳ thang (nhân sâm, sao bạch truật, sao hoàng kỳ, phục linh, long nhãn) trích thảo, gia khương, táo, sắc thang cũng trị chứng hay quên, sợ hãi, tim đập mạnh không ngủ được.

2 – Tang thầm chủ tiêu khát, thủy thũng.

Long nhãn trị bệnh hậu thế hư.

Tang thầm tư nhuận, lợi thủy, trị tiên khát, âm hư, thủy thũng (xem hắc chi ma và tang thầm).

Long nhãn nhục là giai phẩm bổ huyết ích khí, càng dưỡng tâm tỳ. Cho nên là vị thuốc bổ rất tốt cho các chứng sau bệnh (sau khi đã chữa bệnh khỏi) hoặc sản hậu, mà khí huyết khuy hư. dùng một vị sắc thang nóng, hoặc cũng với bạch đường nấu chín làm cao.

3 – Tang thầm chủ trị tràng táo tiện bí

Long nhãn nhục chủ trị tỳ hư, tiết tả.

Tang thầm tư âm, nhuận táo, tiện bí – thường cùng huyền sâm, sinh địa, hỏa ma phối hợp.

Long nhãn nhục bổ tỳ ích tâm, ích khí, bổ huyết. Nên chữa được tỳ hư, tiết tả hoặc tiện huyền.

Như “Tuyền châu bản thảo” trị tỳ hư, tiết tả. Tức dùng long nhãn 14 quả, sinh khương 3 phiến sắc thang uống – Nếu chữa a mễ ba bệnh đái máu, dùng long nhãn nhục bao với trứng gà nuốt đi. Công hiệu càng tốt hơn.

Đặc thù sử dụng khác nhau

Tang thầm lợi thủy. Như “Thổ tế phương” tang thầm phương thanh trị thủy trướng, hoặc không hạ được tất nhiên đầy tràn. Dùng tang thầm tử kiêm Chù bì (vỏ cây đó làm giấy) “Bản thảo cương mục” Tang thầm tửu, bổ ngũ tạng, minh nhĩ mục, trị thủy thũng, không hạ tất nhiên đầy, hạ thì hư, vào trong bụng thói 10 không một hoạt. “Tố vấn bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập” Văn vũ cao (Tang thầm 2 đấu, lấy nước, đun thành cao, mỗi lần dùng một thìa nước trắng chiêu thuốc, ngày 3 lần trị tràng nhạc.

“Thực hiệu phương” trị đầu thượng thốc sang. Dùng đào hoa (âm can) cùng với tang thầm, xích giả tán mạt lấy mõ lợn hòa. Trước hết lấy nước tro rửa sạch, rồi bôi thuốc vào.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*