Virag một giáo sư chuyên khoa về Tình Dục của Pháp (1982) và giáo sư Giles Brindley (1983) là người Anh, hai người cùng một lúc khám phá ra tác dụng của các chất dãn cơ khi chích nó vào thể hang của dương vật.
Từ lâu việc diều trị bệnh bất lực đả không được giới Y Khoa để tâm đến, các viện bào chế dược phẫm không màn chú ý đến, hoàn toàn không có một loại thuốc nào dược sản xuất từ các hảng bào chế danh tiếng, mãi cho đến khi một sự kiện bùng nỗ làm các nhà kinh tế sửng sốt khi nhận ra một thị trường to lớn, một lợi nhuận khổng lồ từ căn bệnh mà có.
Ðó là năm 1983, một Hội Nghị về Nhược Dương được tổ chức. tại Las Vegas –Hoa Kỳ. Giles Brindley: 56 tuổi là một nhà nghiên cứu có tầm cỡ đã bước ra khỏi diễn đàn va làm chấn động thị trường này với một hành động cực kỳ quái đản bằng cách kéo quần xuống và trình cái “của quý” đang cương cứng trước cả trăm nhà nghiên cứu hàng đầu về nhược dương trên thế giới. Ông giải thích rằng:” Ðây là kết qủa của việc sử dụng một dược phẩm mà tôi đã nghiên cứu có khả năng gây cương để trị bệnh liệt dương. Tôi đã thí nghiệm trên cơ thể của chính mình và hôm nay trước khi đọc bài tham luận tôi đã chích thuốc ấy vào dương vật của chính mình và hiệu qủa của thuốc như quý vị vừa thấy”.
Giles Brindley đã thuyết phục hoàn toàn được các cử tọa tại cuộc hội thảo này 100 % kể cả những người khó tính nhất, và những người thường hay đặt những câu hỏi hóc búa cũng phải im lặng. Một trong những người tham dự đã nói : “Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông ta bước ra diễn đàn trong bộ y phục thể thao bằng thun trên người, ở một nơi mà các người đến dự đều ăn mặc y phục chỉnh tề, nghiêm túc. Ðột nhiên ông ta kéo chiếc quần thun xuống trước mặt
mọi người, sau đó ông đi xung quanh hội trường để chỉ cho mọi người thấy hiệu qủa của phương thuốc kỳ diệu mà ông ta vừa khám phá ra “
Giles Brindley đã mở đầu cho một trang sử mới trong việc điều trị liệt dương nhưng ông ta không hiểu và không giải thích được tại sao như vậy. Mãi về sau này người ta mới tìm hiểu một cách sâu xa hơn về cơ chế của bệnh liệt dương mà trước đó người ta chỉ hiểu một cách mơ hồ, một danh từ y học mới đưọc đặt ra gọi là Rối Loạn Cương Dương Vật (ED)
Kể từ năm 1971 khi lần đầu tiên Margolis, Prieto, Stien đã nghiên cứu tác dụng của Yohimbin trên sinh lý của dương vật và chức năng tình dục cho đến ngày 7. 9. 1992 NIH (The National Institus of Health). là một viện sức khỏe hàng đầu của Hoa Ký thông báo một điều tra cơ bản : là có từ 10 đến 20 triệu người đàn ông Mỹ bị liệt dương và nếu kể chung thì có hơn 30 triệu người có những rắc rối về vấn đề Rối loạn cương dương vật
Một bản chi tiết đã đăng taỉ cho thấy sự gia tăng tỷ lệ bất lực từ tuổi 40 đến tuổi 60 là 15% cho đến 25%.
Năm 1994 MMAS là một nghiên cứu của nhóm Feldman và Goldstein khi khảo sát trên 1290 người có tuổi tại Masschusetts đã đứ ra mộ tỷ lệ bị liệt dương như sau:
- 38, 9% ở tuổi 40
- 67, 1% ở tuổi 70
Những con số này đã gây tác động mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu và dư luận quần chúng Hoa Kỳ.
Khi vấn đề này lại được nhìn ở góc độ của các nhà kinh doanh thì những người này nhận ra rằng đây qủa là một thị trường dược phẩm to lớn mà theo tính toán nếu thành công trong việc chế tạo ra một loại thuốc đáp ứng được nhu cầu của thị trường này thì chắc chắn sẽ thu được một mối lợi nhuận khổng lồ.
Khi các nhà kinh doanh có tầm cở thông qua các công ty dược phẩm lao vào lãnh vực này thì nó kéo theo một xáo trộn ghê gớm. Các ngân khoảng đầu tư nghiên cứu tăng lên nhanh chóng, họ tìm cách thu hút các nhà nghiên cứu khoa học, các chất xám ở khắp nơi trên thế giới, các tiến bộ kỷ thuật được tận dụng với mục đích khá rõ ràng là tìm cho ra cái đáp số mà nhu cầu của số lượng 30 triệu người đàn ông Hoa Kỳ đang cần tới.
Hiện tại một chiến dịch quảng cáo rầm rộ dưới nhiều hình thức nhiều khi rất tinh vi khó nhận thấy, chúng ta đã từng thấy những số tiền khổng lồ chi ra cho quảng cáo của Coca Cola, Heineken, Tiger, thuốc lá … thì các sản phẩm của các công ty dược chắc chắn cũng không phải là nhỏ.
Sau biến cố của Giles Brindley, ý niệm tìm cho ra một loại thuốc uống để trị bệnh liệt dương được khởi động một cách mãnh liệt.
Năm 1991 Sildenafil là một hóa chất được đem ra thử nghiệm, Sildenafil được một nhóm nghiên cứu của Pfizer tìm ra dùng để ngăn ngừa và điều trị bệnh nhồi máu cơ tim.
Năm 1992, trong khi đem thử nhgiệm trên những người tình nguyện thì họ nhận được báo cáo từ các người này rằng : ” khi dùng thuốc thì có hiện tượng dương vật cương lên “. Những nhà nghiên cứu của Pfizer lập tức chuyển hướng ngay sang vấn đề vừa nảy sinh. Họ tìm hiểu tại sao lại có hiện tượng lạ như vậy, sau đó họ hiểu ngay rằng vì lượng máu được dồn vào dương vật càng ngày càng nhiều hơn làm cho dương vật cương cứng. Vai trò của NO (Nitric Oxide) ảnh hưởng trên sự dồn máu này là cơ chế được giải thích.
Năm 1993, Pfizer thành lập một nhóm nghiên cứu riêng gồm có các nhà quản lý, các khoa học gia, các nhà lâm sàng… và họ đã thực hiện nghiên cứu Sildenafil (Viagra) trong nhiều trung tâm nghiên cứu ờ Anh và Hoa kỳ sau kết qủa khả quan của việc thử nghiệm này
Năm 1994 các nhà lãnh đạo nghiên cứu bắt đầu triển khai có qui mô trên toàn thế giới trong nhiều trung tâm nghiên cứu đặt ở nhiều quốc gia.
Năm 1985, Fizer đã tài trợ cho nhiều nhóm nghiên cứu về bệnh bất lực cuối cùng họ đã tìm ra một cách có hiệu qủa để đánh giá tình trạng bất lực ở bệnh nhân, đó là Bản Chỉ Số Quốc Tế về chức năng cương dương vật gọi là Bản IIEF (International Index Erectile Function). Cũng trong gia đoạn này đã điều chỉnh được liều lượng có hiệu qủa tối ưu của viên Viagra, liều được chính thức đề nghị là 25, 50 và 100mg. Nồng độ tối ưu của thuốc trong máu, thời gian có hiệu lực, thời gian bán hủy … cũng đã được nghiên cứu và kiểm chứng.
Sau khi đã xác định được liều lượng, thời gian dùng thuốc, cùng các phản ứng phụ, phản ứng có hại, tương tác thuốc đối với các bệnh tim mạch, suy gan, suy thận mãn tính …đánh gía xem thuốc có khả năng trở thành thuốc kích dâm hay có khả năng gây ung thư hay dị dạng hay không?
Năm 1996, thuốc Viagra bắt đầu được sử dụng điều trị thực nghiệm trên những bệnh nhân có nguyên nhân gây bất lực rõ ràng như bệnh tiểu đường, bệnh cao huyết áp, những bệnh nhân có tổn thương cột sống …
Ðến năm 1996 các kết qủa được đánh giá va chính thức được đăng tải trên tạp chí y khoa nổi tiếng như British Medical Journal và Journal of Impotence Research. :Viagra một dược phẫm uống dùng để trị bệnh bất lực hay còn gọi là bệnh Rối loạn Cương Dương Vật (ED), sau đó họ bắt đầu tiến hành khai thác trên thị trường dược phẩm, nộp đơn xin phép chính phủ Hoa Kỳ và các nước Châu Âu để thuốc được lưu hành thuốc trên thị trường. Các con số và các bản tường trình, các công việc tiến hành nghiên cứu theo dõi kiểm tra đã được đệ trình cho ủy ban này. Thuốc Viagra đã được sử dụng trên hơn 4000 bệnh nhân và 550 người đã dùng thuốc trên 1 năm.
Ngày 27. 3. 1998, Viagra được FDA (cơ quan thực phẩm và thuốc) của Hoa Kỳ chính thức chấp thuận cho phép chúng lưu hành tại Mỹ. Tại Việt Nam Fizer đã tiến hành nộp đơn xin phép được lưu hành tại Cục Qủan Lý Dược thuộc Bộ Y Tế
Viagra có công thức hóa học :
- Ðó là một loại muối kết tinh dưới dạng bột màu hơi trắng, có độ hoà tan 3, 5gram trong một lít nước,
- Trọng lượng phân tử 666, 7
- Ðóng viên hình bầu dục với vỏ bọc màu xanh da trời hay màu huyết dụ
- Có ba loại viên Viagra với hàm lượng : 25mg, 50mg và 100mg.
- Các tá dược được sử dụng là: Microcrystallin celullose, calciumphosphate, croscarmellose, Mg stearate ………
Với đặc điểm hấp thụ nhanh qua đường tiêu hóa, chỉ cần 30 phút sau khi uống là nồng độ của thuốc trong máu có thể đạt đến mức tối đa. Vì thế nên sử dụng thuốc một giơ trước khi quan hệ
Thuốc được chuyển hoá ở gan.
Thuốc sẽ bị giảm hiệu lực sử dụng khoảng 29% nếu có hiện diện của chất thức ăn, nhất là chất béo. Thuốc nên dùng thuốc khi bụng đói.
Thuốc được phân bố trên toàn cơ thể. Khoảng 96% ở trong máu và phần còn lại nằm trong các mô.
Thuốc được thải qua phân và nước tiểu.
Ba đến năm giờ sau khi uống thì một nữa số thuốc đã bị mất hết tác dụng. Trong khoảng 24 giờ là thuốc đã hết tác dụng, cho nên nếu có nhu cầu thì phải dùng lại ngày hôm sau.
Liệt Dưong. Bất lực hay còn gọi là Rối Loạn Cương Dương Vật (ED) là một căn bệnh như các bệnh khác cho nên nó phải dươc chẩn đoán và điều trị
Lựa chọn phương pháp, thời gian, dược phẫm, theo dõi các tai biến là vấn đề chuyên môn của thầy thuốc. Bệnh nhân không nên tự động dùng thuốc cho dù với bất cứ lý do nào.
Nguồn: BS HỒ ÐẮC DUY
Để lại một phản hồi