Sơ lược lịch sử Y học Cổ truyền Việt Nam

1. Việt Nam có địa sinh học riêng.

Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, Thời nguyên đại Trung sinh cách đây 200 triệu năm, diải đất nước ta lúc đầu như mầm xương sống hình chữ S đó là dãy núi Trường Sơn. Thời đại Tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp; hợp thành lục địa á châu, có kết cấu địa chất, địa tầng có sông, có núi…

Cuối Thời kỳ Đệ Tam cách đây 10 – 20 triệu năm, á châu đã có vượn cao cấp. Nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh, con người Việt Nam xuất hiện từ thời kỳ Canh Tân . Do Thời kỳ băng hà kéo dài từ Thuỷ Canh Tân đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói riêng và ở Đông Nam á nói chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển tràn lên, kết hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển, nguồn thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây, ăn thịt động vật để sống, đồng thời cũng chọn lọc tự nhiên những động vật và cây cỏ ăn để chữa bệnh. Vì vậy thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác, đời này sang đời khác và tồn tại đến nay. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Y học cổ truyền Việt Nam đã đúc kết được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc quí: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu, hương phụ…được lưu truyền đến ngày nay.

2. Việt Nam có lịch sử xã hội lâu đời.

Việt Nam có nhà nước Văn Lang, từ thời Hồng Bàng năm 2879 – 257 trước công nguyên; thời đại các Vua Hùng, tổ tiên ta sớm sử dụng thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật và khoáng vật để làm thuốc. Ngoài ra còn biết sử dụng cả thuốc độc tẩm vào tên, giáo mác để chống giặc ngoại xâm…Hiện nay có tượng và miếu thờ An Kỳ Sinh – Nhà châm cứu Việt Nam đầu tiên tại Trúc sơn, Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh. Tượng và miếu thờ Bảo Cô – Nhà nữ châm cứu (thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Tài liệu do Giáo sư thầy thuốc nhân dân Nguyễn Tài Thu -Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam sưu tầm. Hơn một thiên niên kỷ , dân tộc Việt Nam dưới ách xâm lược nô dịch và đồng hoá của phong kiến Trung Quốc; các dược liệu quí hiếm đều bị cướp bóc mang về chính quốc. Thời kỳ độc lập dưới các triều đại phong kiến (938 – 1884) sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền từ năm 938, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập.

3. Lịch sử Y học cổ truyền Việt Nam.

+Thời kỳ Nhà Lý (1010 – 1224): có tổ chức Thái y viện ở Kinh đô cũng như ở các địa phương.

+ Thời kỳ Nhà Trần (1225 – 1399): phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp nơi, nhiều danh y nổi tiếng trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh hiệu là Tuệ Tĩnh, quê Nghĩa Phú, Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Hưng, Ông thi đỗ Tiến sĩ nhưng không ra làm quan mà đi tu và làm thuốc, tác phẩm y học nổi tiếng của ông là “Nam dược thần hiệu” gồm 11 quyển, chọn lọc 580 vị thuốc, phân loại theo nguồn gốc (23 loại): cỏ hoang, dây leo, mọc ở nước, có cánh như loài chim, cầm thú…chọn lọc dược liệu có trong nước tổ chức thành – 873 bài thuốc điều trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.

Trong tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư – y thư” Ông đã tóm tắt tác dụng của 630 vị thuốc theo biện chứng luận trị . Ông được nhân dân tôn là Ông Thánh thuốc nam. Năm 1335, Tuệ Tĩnh được mời sang Trung Quốc chữa bệnh cho Vua nhà Minh và bị giữ lại cho đến khi chết.

+Thời kỳ Nhà Hồ (1400 – 1406): châm cứu phát triển Nhà châm cứu nổi tiếng là Nguyễn Đại Năng đã biên soạn cuốn sách “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…

Thời kỳ đô hộ của giặc Minh Trung Quốc (1047 – 1472): Y học dân tộc bị tổn thất nghiêm trọng.

+Thời kỳ Hậu Lê (1428 – 1788): có bộ luật Hồng Đức, đời Lê Thánh Tông (1460 – 1479) ban hành qui chế làm thuốc. Năm 1665, Lê Huyền Tông đã 2 lần ra lệnh cấm hút thuốc lào; ở Triều đình có Thái y viện, ở các tỉnh có tế sinh đường, ở quân đội có sở lương y. Thời kỳ này có đại danh y  Hoàng Đôn Hoà. Ông là lương y phục vụ trong quân đội nhà Lê, tác phẩm nổi tiếng của Ông là “Hoạt nhân toát yếu”, Ông được sắc phong của Vua Lê Thánh Tông là“Lương y quốc, Thọ tư dân”. Hiện nay nhân dân lập đền thờ Hoàng Đôn Hoà tại quê Ông: thôn Đa sĩ, xã Kiến Hưng, Thị xã Hà Đông, Tỉnh Hà Tây.

Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791), quê Văn Xá, Yên Mỹ, Hải Hưng. Ông đã tóm lược y lý Y học cổ truyền phương Đông, tổng  kết những thành tựu Y học cổ truyền Việt Nam từ trước đến thế kỷ XVIII và đã vận dụng sáng tạo những tinh hoa Y học cổ truyền vào điều kiện thời tiết khí hậu liên quan đến đặc điểm phát bệnh ở nước ta. Tác phẩm “Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập, 66 quyển, đến nay vẫn được coi là bộ sách bách khoa về Y học cổ truyền. Ông đã tổng kết hoàn chỉnh, hệ thống hoá nền Y học truyền thống Việt Nam trên các lĩnh vực; nội khoa, ngoại khoa, sản phụ, nhi khoa và ngũ quan khoa trên phương diện chẩn trị dự phòng từ lý pháp đến phương dược, từ y đức đến y sử, y thuật, đến các lĩnh vực thiên văn y học và thực trị học. Về dược học Lãn Ông đã sưu tầm thêm 300 vị thuốc, tổng hợp thành 2854 bài thuốc kinh nghiệm. Nét độc đáo trong biện chứng luận trị Y học cổ truyền của Lãn Ông, đến nay và mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động, chẩn trị theo y lý cổ truyền, của các thế hệ thầy thuốc y học dân tộc Việt Nam.

  •  Nội kinh là sách viết về biện chứng luận trị các chứng và bệnh thuộc phạm vi nội khoa bệnh học. Thông qua các phạm trù kinh điển của y học cổ truyền. Ví dụ: tý chứng, tâm quí, tiêu khát, thoát thư, ngân tiết bệnh…để liên hệ với các bệnh danh đã được hiện đại hoá theo quan điểm Y học hiện đại.

Thế kỷ XIV đến XVIII các đại danh y Việt Nam: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông trên cơ sở thừa kế tiếp thu y học phương Đông đã tóm lược trong “Nội kinh yếu chỉ”. Lãn Ông chọn lọc những điểm thiết yếu, kinh điển thực tiễn của y học phương Đông, làm cơ sở cho biện chứng một số bệnh nội khoa học:

  • Y già quan miệm: phân tích tổng hợp lý luận cơ bản học thuyết âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc khí huyết, chẩn đoán mạch học, bệnh lý, pháp trị, phương trị.
  • Y hải cầu nguyên: ( Tâp.3.4.5) nguyên tắc trị liệu, dựa trên những qui luật chung về sinh lý bệnh lý.
  • Huyễn Tẫn phát huy (Tập 6): quan niệm về thuyết thuỷ hoả, mệnh môn hoả , tướng hoả , tiên thiên thuỷ hoả, chân thuỷ, chân hoả của Hải Thượng.
  • Khôn hóa thái chân (Tập 7): nói về hậu thiên tỳ vị, chức năng tiêu hoá hấp thu hoá giáng, tác dụng của khí huyết, biểu hiện bệnh lý và chẩn trị.
  • Đạo lưu dư vận (Tập 8): biện luận bổ xung những điều về y lý mà y học phương Đông chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa rõ ràng.
  • Dược phẩm vị yếu (Tập 11): các vị thuốc phía Bắc và phía Nam được phân loại theo ngũ hành, Ông chọn lọc 150 vị thuốc thiết yếu thực tiễn Việt Nam.
  • Lĩnh Nam bản thảo (Tập 12.13): tên và tác dụng của 496 vị thuốc nam đã thừa kế của đại danh Tuệ Tĩnh. Ông bổ xung thêm 305 vị thuốc mới mà ông đã phát hiện thêm.
  • Ngoại cảm thông trị (Tập 14): đặc điểm, tính chất bệnh ngoại cảm ở Việt Nam và sáng lập các phương thuốc Nam để tự điều trị.
  • Bách bệnh có yếu (Tập 15-24): nội khoa bệnh học , hiện chỉ có Bính Đinh còn thiếu: Giáp ất, Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quí…
  • Y trung quan kiện (Tập 25): tóm lược phương pháp điều trị các loại bệnh.
  • Phụ đạo xán nhiên Tập (26-27): chuyên về các bệnh phụ
  • Toạ thảo lương mô (Tập 28): chuyên về các bệnh sản
  • Âu âu tu tri (Tập 29-33): chuyên về các bệnh nhi
  • Mộng trung giác đậu (Tập 34-40): chuyên về các bệnh đậu mùa.
  • Ma chẩn chuẩn thắng ( Tập 41-44) chuyên về bệnh sởi.
  • Tâm đắc thần phương (Tập 45): chọn lọc 70 phương thuốc trong cẩm nang của Phùng Triệu Trương.
  • Hiệu phỏng tân phương (Tập 46): ghi chép 29 phương thuốc do Lãn Ông sáng lập
  • Bách gia trân tăng (Tập 47-48-49): ghi chép 600 phương thuốc kinh nghiệm thu lượm trong nhân dân và thừa kế của Bùi Điện Đăng.
  • Hành giản trân nhu (Tập 50-57): ghi chú 200 phương thuốc chọn loc trong các bản thảo từ đời trước, chủ yếu là Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh (TK XIV)
  • Y dương án , Y âm án (Tập 59-60) chép 17 bệnh án chữa khỏi; 12 bệnh án tử vong
  • Truyền tân bố chỉ (Châu ngọc cách ngôn) (Tập 61): điều cốt yếu nhất trong nguyên tắc biện chứng luận trị.
  • Vệ sinh yếu quyết (Tập 62): chuyên về vệ sinh, dưỡng sinh phòng bệnh.
  • Bảo thai thần biện toàn thư (Tập 63) hiện nay còn bị thất lạc.
  • Nữ công thắng lãm (Tập 64): cách nấu nướng – thực trị học.
  • Thượng kinh kí sự (Tập 65): kể lại hành trình của Ông lên Kinh Đô theo chiếu của nhà Vua, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (năm,1782.)
  • Vận khí bí điển (Tập 66) : qui luật chuyển dịch của ngũ vận lục khí liên quan đến yếu tố bản tạng và trạng thái thiên thắng của cơ thể con người .
  • Nội kinh yếu chỉ : Lãn ông cho rằng “ Nhà y có Nội Kinh cũng như nhà nho có Ngũ Kinh ,đó là lời nói chí lý của thánh  hiền, lý lẽ sâu xa về cơ  năng huyền bí đều  thể hiện tất cả ở trong đó , lời giáo huấn ngày xưa còn để lại sáng tỏ như mặt trời “. Theo quan điểm của Tuệ Tĩnh và Lãn Ông thì “ Nội Kinh” là Bộ sách cổ đề cập đến quan niệm duy vật biện chứng cổ đại, cơ thể con người là một chính thể giữa thiên nhiên; cơ thể sống giống như một vũ trụ thu nhỏ “Nhân thân chi tiểu thiên địa”. Thuyết “Thiên nhân tương ứng”: trong vũ trụ bao la có bao nhiêu  tinh tú thì trong cơ thể con người có bấy nhiêu vi tinh tú , mọi quy luật diễn biến, biện chứng của bầu thái cực (vũ trụ bao la ) cũng đều có thể xảy ra ở trong cơ thể con người.Tiếp thu tinh hoa của Nội Kinh; các y gia tiền bối nước ta đã tìm hiểu vận dụng sáng tạo, tiêu biểu là thuyết vận khí bí điển của Hải Thượng Lãn Ông đã quán triệt quan điểm dịch học tinh hoa vào y học một cách độc đáo và thực tiễn.
  • Nội dung cụ thể của Nội kinh cương yếu :

Phép dưỡng sinh: luyện tâm, luyện tức, luyện thực, luyện thể, luyện thần. Trong biện chứng về phương pháp chữa bệnh toàn diện này có phép luyện ý, luyện chí, luyện thở, luyện thư giãn theo tư thế tĩnh và luyện hình theo tư thế động Đây là một phương pháp tự phòng bệnh và chữa bệnh, có hướng dẫn. Nội dung cơ bản của học thuyết âm dương ngũ hành, đó là quan điểm triết học duy vật cổ đại, quy luật mâu thuẫn phổ biến, biện chứng duy vật, giải thích sự vận động, phát triển của thế giới bằng chính sự vận động phát triển của vật chất chứ không phải do thượng đế sinh ra. Vận dụng các quy luật phát triển vận động của vật chất trong thiên nhiên, ứng dụng vào sự phát triển cơ quan tạng phủ trong cơ thể con người. Học thuyết tạng tượng, học thuyết kinh lạc, các hội chứng tạng phủ được biểu hiện ra ngoài khi

bình thường và khi bất thường; chẩn đoán bệnh học và phép tắc điều trị, cuối cùng là học thuyết ngũ vận lục khí.

 –  Kim quỹ yếu lược: Thực chất là Thương hàn tạp bệnh luận (Trương Trọng Cảnh – đời Hán Thế Kỷ2-3 sau Công Nguyên) . Nội dung chủ yếu là quan niệm và giải thích các khái niệm về biện chứng luận trị, mạch chứng, xét mạch và  báo trước bệnh tạng phủ, bệnh bách hợp,   bệnh hồ hoặc âm dương độc (bệnh trùng sán hoặc tà độc thuộc âm, thuộc dương). Mạch chứng về ngược tật là các bệnh thuộc miền ngược: sốt rét, sốt xoắn trùng mảnh, sốt phát ban, sốt hồi qui…Cách chữa bệnh trúng phong, lịch tiết phong (bệnh sốt ra mồ hôi có màu vàng); cách chữa về chứng huyết tý, hư lao; cách chữa chứng phế nuy, phế ung khó thở; bệnh ba đồn khí (cơn đau như con lợn chạy lên). Thực chất là dị cảm, rối loạn thần kinh chức năng do stress: chữa bệnh hung tý, tâm thống và đoản khí. Cách chữa phúc mãn , hàn sán và túc thực (nghĩa là cách chữa chứng đầy bụng) chậm tiêu khi ăn ; viêm màng não,viêm tinh hoàn (sán khí) bệnh thuộc can kinh; phong hàn tích tụ ở ngũ tạng, bệnh cảm phải gió lạnh không theo lục kinh; nếu trực trúng vào tạng phủ nào thì có trịêu chứng của tạng phủ đó. Biện chứng về đàm ẩm

khái thấu, biện chứng bệnh tiêu khát (đái tháo đường), bệnh lâm – viêm nhiễm đường tiết niệu. Thực chất là thủy thũng, phù do nước không hoá thành khí mà đọng lại. Thủy khí được chia ra; phong thủy, bi thủy, chính thủy, thạch thủy và hoàng hãn (mồ hôi có màu vàng); tên gọi này dựa vào vị trí nước đọng ở đâu để đặt, cũng tùy theo vị trí mà biện chứng dùng thuốc.

Mạch chứng và cách chữa hoàng đản: da vàng, mắt vàng, nước tiểu vàng; biện chứng về thấp nhiệt phạm tỳ ảnh hưởng đến vận hoá chuyển hoá tạng can đởm thận vị. Mạch   tượng ứng với một số bệnh về tiêu hoá ,sinh dục, tiết niệu nguyên do là thấp nhiệt.

Mạch chứng và cách chữa kinh quí, thổ lục, hạ huyết, ngực đầy, ứ huyế: nghĩa là biện chứng về nhịp tim, hồi hộp, đánh trống ngực, nôn ra máu, bệnh chảy máu cam và đại tiện ra máu. Suy từ kinh mạch để chẩn trị về huyết chứng.

Mạch chứng và cách chữa bệnh ẩu thổ, uế trọc, hạ lợi: biện chứng về sóng mạch, hình mạch tương ứng để chẩn trị chứng nôn mửa, nôn khan và ỉa chảy.

Tập Kim quĩ yếu lược là tóm lược những tài liệu quí giá như kho vàng thời Hán được Trương Trọng Cảnh ( Thế Kỷ2-3 sau Công Nguyên) tổng kết trong thương hàn tạp bệnh luận hay tạp bệnh luận (những bệnh lý hay gặp ngoài thương hàn).

Điểm đáng chú ý là hầu hết những bài thuốc ở đây đều dùng rất ít vị và dùng liều rất cao, đúng là “quí hồ tinh bất quí hồ đa”.

  • Ví dụ: bài thuốc bạch đầu ông thang chữa chứng thấp nhiệt rót xuống hạ tiêu: Bạch đầu ông 120g, hoàng liên 120g, hoàng bá 120g, tân bì, 4 vị thuốc trên, nước 7 thăng sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã uống ấm một thang.
  • Ví dụ: bài phòng kỷ phục linh thang chữa chứng thuỷ khí: Phòng kỷ, quế chi, hoàng kỳ đều 3 lạng, phục linh 6 lạng, cam thảo 2 lạng. 5 vị thuốc trên thêm nước 6 thăng sắc còn 2 thăng, chia 3 lần , uống ấm.
  • Ví dụ: bài nhân trần cao chữa chứng hoàng đản, chứng vàng da, Nhân trần 6 lạng, chi tử 14 quả, đại hoàng 2 lạng. 3 vị trên nước một đấu, trước sắc nhân trần cạn bớt 6 thăng, cho 2 vị còn lại sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã chia ba lần uống ấm, tiểu tiện sẽ thông lợi, nước tiểu đỏ xẫm như nước bồ kết. Một đêm thì bụng giảm, sắc vàng theo nước tiểu ra hết.
  • Ví dụ: theo kinh văn số 293 tâm khí bất túc, thổ huyết, nục huyết tả tâm thang chủ chi (phải dùng bài tả tâm thang để điều trị là chính): Đại hoàng 2 lạng, hoàng liên 4 lạng, hoàng cầm 1 lạng, 3 vị trên thêm nước ba thăng, sắc còn 1 thăng uống hết 1 lần.
  • Ví dụ: bài thuốc bổ dưỡng chữa hư lao, chữa bệnh phụ khoa “thận khí hoàn”: Can địa hoàng 8 lạng, sơn thù 4 lạng, phục linh 3 lạng, phụ tử chế 1 lạng, sơn dược 4 lạng, quế chi 1 lạng, trạch tả 3 lạng, đan bì 3 lạng. 8 vị trên tán bột, luyện mật làm viên hoàn to bằng hạt ngô đồng.Liều uống 15 hoàn / lần uống với rượu, lên tới 20 hoàn/ lần ngày 2 lần.

 – Thương hàn luận:

Tập sách về biện chứng luận trị các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân chủ yếu là phong hàn được viết vào thời đại nhà Hán. Theo tài liệu “cần cứu cổ huấn”,“bác thái quần phương”của Trương Trọng Cảnh ( Thế Kỷ2-3 sau Công Nguyên) dựa trên cơ sở lý luận của “Nội kinh” Ông đã phát triển một bước về phép tắc của biện chứng luận trị. Tài liệu “Thương hàn tạp bệnh luận” bao gồm hai bộ phận; Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược. Đây là tập sách đầu tiên chuyên viết về các triệu chứng lâm sàng đã được ứng dụng rộng rãi trong và ngoài nước Trung Quốc. Ngoài ra tập sách còn bổ xung những khiếm khuyết của “Ngoại kinh” và các tài liệu trước đó. Bộ sách chuyên về y học lâm sàng cổ đại, cùng với lý luận y học cổ đại, tác phẩm được đánh giá tương đương với “Nội kinh”. Đó là một cống hiến to lớn của Trương Trọng Cảnh đương thời. Cùng với Trương Trọng Cảnh là đại danh y Hoa Đà, Ông có trình độ tinh thông về nội, ngoại khoa, phụ nhi khoa và châm cứu. Đặc biệt là trong điều trị ngoại khoa ,Ông đạt nhiều thành tựu rất ưu việt. Theo tài liệu Hậu Hán thì Hoa Đà là người đầu tiên đề xuất với thế giới ứng dụng phương pháp vô cảm để phẫu thuật phần bụng. Ông viết: nếu bệnh tật phát hết ở trong , châm và thuốc đều không có chuyển biến thì chọn rượu mạnh uống cho giảm đau, rạch phần bụng và lưng, cắt bỏ tích tụ hoặc trường vị có tật, cần phải loại bỏ tận gốc. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy “Thương hàn luận “ là mực thước  về phép biện chứng các bệnh thuộc ôn bệnh lệ dịch, bệnh truyền nhiễm cấp tính chủ yếu là do lạnh (phong hàn). Các giai đoạn, các diễn biến theo lục kinh được mô tả đầy đủ, các triệu chứng và phép tắc điều trị. Liên hệ YHHĐ là hầu hết các bệnh thuộc chuyên ngành truyền nhiễm, nội khoa bệnh học. Người xưa cho rằng: “Học y mà không đọc sách Trọng Cảnh cũng như học nho mà không đọc sách Khổng Tử.” Theo nghĩa hẹp: thương hàn là cảm phải khí hàn lãnh mà sinh ra bệnh.

Theo nghĩa rộng: là bao gồm cảm phải các khí phong hàn, thử thấp nghĩa là một bệnh do ngoại cảm gây ra. Ngoài ra theo nạn kinh thương hàn có 5 cách: thử và trúng phong, thương hàn, thấp ôn, nhiệt bệnh và ôn bệnh mùa xuân. Thử là bệnh mùa hạ, bệnh ngược là sốt rét, bệnh lỵ là bệnh của mùa thu, hàn khí là bệnh do mùa đông đều thuộc phạm trù “thương hàn”. Như vậy “Thương hàn luận” không phải chỉ biện chứng một loại cảm hàn mà còn biện chứng hàng trăm thứ bệnh từ đó mà ra…

Nội dung của “Thương hàn luận” bao gồm hai giai đoạn lớn:

  • Giai đoạn 1: dương chứng“chính khí tồn nội tà bất khả can”. Nếu phát bệnh thì tà khí mạnh mẽ, chính khí đầy đủ; giao tranh giữa tà khí và chính khí, giữa tác nhân gây bệnh và sức đề kháng cơ thể, được mô tả về bệnh chứng lâm sàng theo ba mức độ:

 – Thái dương bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh:Thủ thái dương tam tiêu kinh và Túc thái dương bàng quang kinh.

 – Thiếu dương bệnh      thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh:Thủ thiếu dương tiểu trường kinh và Túc thiếu dương đởm kinh.

 – Dương minh bệnh   thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh:Thủ dương minh đại trường kinh và Túc dương minh vị kinh

  • Giai đoạn 2: âm chứng bệnh lậu, sức đề kháng cơ thể giảm sút: “tà chi sở tấu kỳ khí tất hư”. Diễn biến bệnh có ba mức độ khác nhau:

 – Thái âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh:Thủ thái âm phế vàTúc thái âm tỳ

 – Thiếu âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh:Thủ thiếu âm tâm kinh và Túc thiếu âm thận kinh

 – Quyết âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ quyết âm tâm bào lạc kinh vàTúc quyết âm can kinh.

Có thể liên hệ: bệnh lý hội chứng thái dương bệnh, là phản ứng chính khí với tà khí ở phần bì phu niêm mạc; thái dương là phản ứng chính khí với tà khí ở phần ngực và sườn; dương minh bệnh ở phần dạ dày, ruột, thái âm bệnh là phản ứng chính tà ở phần tiêu hoá, mật, tụỵ, can, đởm. Thiếu âm bệnh là biểu hiện ở hệ tuần hoàn; bệnh quyết âm là hệ thống thần kinh là thể dịch.

Trong biện chứng lục kinh có 397 phép và 113 phương, tùy bệnh chứng biến hoá và sức đề kháng của cơ thể mà “xem mạch chứng biết tà khí phạm vào đâu, rồi tùy chứng mà chữa”

Biện chứng “Thương hàn luận” càng đọc càng hiểu thêm sâu kinh phương biến hoá tựa rồng , sử dụng cảm thấy linh thông thần kỳ.

Liên hệ với YHHĐ, ngoài bệnh cảm mạo thì các thời kỳ của bệnh truyền nhiễm thường bao gồm: giai đoạn ủ bệnh (thời kỳ viêm họng khởi phát), giai đoạn toàn phát triệu chứng rầm rộ, hàn nhiệt vãng lai , biểu lý đồng bệnh nếu không được điều trị bệnh tà chuyển vào lý sẽ có hội chứng: lý thực hàn hoặc lý thực nhiệt. Giai đoạn hồi phục , nếu được điều trị kịp thời bệnh qua khỏi; nếu không được điều trị, sức đề kháng cơ thể giảm sút sẽ xuất hiện các biến chứng có thể có thoát dương, vong dương hoặc âm hư dẫn đến vong âm. Thoát dương, vong dương là choáng trụy mạch, âm hư sinh nội nhiệt, vong âm là rối loạn nước -điện giải.

Theo Hải Thượng Lãn Ông: chứng bệnh sẽ hiện lên lung tung, kỳ hình quái dạng, khó mà mệnh danh; cần phải nắm vững cha của khí là dương, mẹ của huyết là âm; chữa khí, chữa huyết không qua khỏi phải chữa vào âm, vào dương, biết vu âm trung cứu dương, bổ dương tiếp âm, bổ âm tiếp dương, bổ hoả trong thủy.

Liên hệ YHHĐ là điều chỉnh chức năng nội tiết trong đó có tuyến yên và thượng thận để duy trì nước, điện giải, hoạt động bình thường của tim mạch, hô hấp “âm bình dương bế tinh thần nại trị”. Đa số bài thuốc được dùng trong thương hàn luận là tinh giản, ít vị, liều lượng vừa phải.

Ví dụ: bài ma hoàng thang điều trị chứng “thái dương trúng thương hàn”:

Ma hoàng 12g, cam thảo 6g, quế chi 8g, hạnh nhân 12g.

Bài quế chi thang điều trị triệu chứng “thái dương trúng phong”:

Quế chi 12g, chích thảo 8g, bạch thược 12g, đại táo 12g, sinh khương 12g. Thanh thượng tiêu thực nhiệt dùng bài “tả tâm thang”:

Hoàng liên 12g, hoàng cầm 12g, đại hoàng 12g, phụ tử chế 12g. Chứng thiếu dương bệnh dùng bài “tiểu sài hồ” hoặc “đại sài hồ”

Tiểu sài hồ: sài hồ, hoàng cầm, đẳng sâm, đại táo, bán hạ, cam thảo, sinh khương.

Đại sài hồ: thay sâm bằng thược bỏ cam thảo thêm đại hoàng, chỉ thực đều 12g. Chứng dương minh phải dùng bài tiểu thừa khí, đại thừa khí thang:

Tiểu thừa khí: đại hoàng 16g, hậu phác 8g, chỉ thực 8g

Đại thừa khí là tiểu thừa khí thang gia thêm mang tiêu 12g tăng tác dụng nhuyễn kiên. Chứng thái âm (tỳ, phế) phải trọng dụng tứ nghịch thang:

Phụ tử 12g, chích thảo 8g, can khương 12g.

Có khi hàn quyết thì phải dùng can khương, phụ tử đều phải dùng liều cao từ 20 – 40g.

-Nạn kinh là những kinh văn diễn giải những điều khó mà Nội Kinh chưa diễn đạt đầy đủ. Biển Thước (Tần Việt Nhân) đã rút ra trong Nội Kinh 81 vấn đề hay 81 nạn là 81 điều khó hiểu. Bố cục của nạn kinh bao gồm:

  • Mạch học chẩn hậu 24 nạn Kỳ kinh bát mạch 3 nạn
  • Kinh lạc 2 nạn                    Vinh vệ tam tiêu 2 nạn
  • Tạng phủ phối tượng 6 nạn Tạng phủ độ số 10 nạn
  • Hư thực tà chính 5 nạn Tạng phủ truyền bệnh 2 nạn
  • Tạng phủ tích tụ 2 nạn Ngũ tiết thương hàn 4 nạn
  • Thần thánh công sảo 1 nạn Tạng phủ tịnh du 7 nạn
  • Dung châm bổ tả 13 nạn

Thực chất là giải thích rõ ràng những vấn đề cơ bản trong hệ thống biện chứng luận trị của Y học truyền thống phương Đông bao gồm:

  • Biện chứng luận trị về mạch học.
  • Biện chứng luận trị về ngũ tạng lục phủ. Biện chứng luận trị về bệnh tật.
  • Biện chứng luận trị kinh lạc.
  • Biện chứng luận trị du huyệt và biện chứng luận trị về các phương pháp châm cứu. Ví dụ: Nan thần thánh công sảo: giải thích về 4 bước khám bệnh gọi là tứ chẩn.
  • Vọng nhi tri chi vị chi thần (nghĩa là nhìn người): thần sắc, hình thể, rêu lưỡi mắt mà biết được bệnh là bậc thần.
  • Văn nhi tri chi vị chi thánh: nghe tiếng nói hơi thở, tiếng ho, ợ nấc, âm sắc, đi cầu mà biết được bệnh là bậc thánh hiền.
  • Vấn nhi tri chi vị chi công: hỏi về quá trình phát bệnh, yếu tố ảnh hưởng và quá trình chữa trị: ăn ngủ, đại tiểu tiện, hỏi về mồ hôi kinh nguyệt mà biết được bệnh là bậc thổ công.
  • Thiết nhi tri chi vị chi sảo là sờ nắn, khám mạch mà biết được bệnh là bậc kỹ năng kỹ sảo. Cách giải thích  này cũng thống nhất như quan điểm Hải Thượng Lãn Ông (Thế Kỷ
  • (về mạch học): mạch là gợn sóng của khí huyết, các bộ mạch thốn khẩu, phản ánh trung thành tình trạng của bệnh tật ở các cơ quan tạng phủ liên quan nhưng khốn thay ,về mặt cảm giác, xúc giác nhiều vẻ khác nhau do lao động tay cầm cày, cầm cuốc hoặc cầm bút , cầm gươm khó có thể xúc chẩn đúng như tình trạng thực tế của sóng mạch; bởi vậy mạch phải kết hợp với chứng, nhất là những bệnh lý phức tạp thì đôi khi mạch không rõ ràng nên phải bỏ mạch lấy chứng hoặc có lúc bỏ chứng lấy mạch. Tuy nhiên thông dụng nhất là kết hợp giữa chứng và mạch.

Hải Thượng Lãn Ông biện chứng về hư thực: phàm là bệnh lâu ngày không khỏi, người bệnh gầy yếu, da xanh, sắc nhợt, người già tuổi cao, phụ nữ sau đẻ, trẻ con thường thể chất thuộc hư chứng sẽ có mạch hư, nếu có thực là hư chung hiệp thực, còn thực chứng là người trẻ béo khoẻ mới mắc thường là mạch thực, nếu có hư tức là bản thực tiêu hư.

Chúng tôi cho rằng: những vấn đề cần làm sáng tỏ trong nạn kinh, chính là hệ thống lý luận âm dương, tạng phủ, kinh lạc, về thuốc (dược học) và một loạt biện chứng luận trị bệnh học sau này. Phương pháp chẩn đoán của Y học cổ truyền phương Đông là khách quan khoa học bởi những thành công trong chẩn trị bệnh học đã góp phần dự phòng và điều trị có kết quả nhiều bệnh nan y.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*