ĐÁI THÁO NHẠT
– Biện chứng đông y: Tinh khí khuyết tổn, hạ tiêu hư nhược, sự thu nạp của thận không giữ được điều hòa, hạn chế vô quyền.
– Cách trị: Tư âm bổ thận, ích khí sinh tân.
– Đơn thuốc: Gia giảm tam nhân lộc nhung hoàn.
– Công thức:
Đại thục địa 15g | Chích hoàng kỳ 12g |
Ngũ vị tử 6g | Hoài sơn dược 30g |
Mạch đông 18g | Sơn thù nhục 9g |
Nguyên sâm 18g | Bổ cốt chỉ 9g |
Địa cốt bì 6g | Nhân sâm 4,5g |
Kê nội kim phấn (sao) 3g (chia 2 lần uống với nước thuốc) |
Lộc nhung phấn 1g (chia 2 lần uống với nước thuốc) |
Mỗi ngày 1 thang, sắc với nước 2 lần lấy 400ml nước thuốc chia uống 2 lần. Mỗi tuần uống 6 thang.
– Hiệu quả lâm sàng: Bàng XX, nam, 34 tuổi. Vào viện điều trị ngày 18-5-1964. Mắc bệnh từ nǎm 1963, lúc đầu miệng khô khát, uống nhiều, tiểu tiện nhiều, nước tiểu đục, thân thể mỏi mệt, sau đó bệnh tình ngày càng nặng, mỗi ngày uống tới hơn 10 bình nước, đã uống hơn 80 thang thuốc đông y mà bệnh không khỏi. Càng ngày bệnh nhân càng gầy, thể trọng trước đây nặng 65kg, tụt dần xuống 52,5kg. Tháng 3 nǎm 1963 vào viện điều trị 2 tháng, chẩn đoán là đái tháo nhạt, cho tiêm Pituitrin, lượng nước tiểu giảm rõ rệt, đỡ khát nước, nhưng kết quả điều trị này không được củng cố. Tháng 5 đến khám lại một bệnh viện tỉnh, vẫn chẩn đoán là đái tháo nhạt. Khám thấy bệnh nhân miệng khô cổ khát, lại kèm váng đầu, mệt mỏi, tức ngực, ra mồ hôi trộm, trong quá khứ lại đã bị di tinh, mặt hơi đỏ, chất lưỡi đỏ sẫm, rêu trắng hơi vàng, mạch bên trái tế nhược, mạch bên phải tế huyền. Một ngày uống tới 4,1 lýt nước, lượng nước tiểu lên tới hơn 4 lýt. Xét nghiệm thành phần máu bình thường, tỉ trọng nước tiểu 1,002, đường niệu âm tính. Hội chẩn cả mạch và chứng có thể thấy bệnh thuộc chứng tinh khí khuyết tổn, hạ tiêu hư nhược, sự thu nạp của thận không giữ được điều hòa, hạn chế vô quyền. Phải trị bằng tư âm bổ thận, ích khí sinh tân. Cho dùng “Gia giảm tam nhân lộc nhung hoàn”. Bệnh nhân uống được 18 thang, đỡ khô miệng, mất các chứng váng đầu, ra mồ hôi trộm, lượng nước tiểu đã giảm xuống 3,6 lýt, như vậy là thuốc đã trúng bệnh. Tuy nhiên lượng nước uống mỗi ngày vẫn còn cao tới 4 lýt, lại tái phát di tinh, 4-5 ngày bị một lần. Lại cho dùng bài thuốc trên nhưng giảm Nguyên sâm, Mạch đông xuống còn 12g, bỏ Phục linh, Ngưu tất, thêm Tang phiêu tiêu 12g, Kim tỏa cố tinh hoàn 18g (sắc cùng). Dùng thêm 33 thang, không thấy tái phát di tinh, thể lực tǎng cường, lượng nước uống mỗi ngày giảm tới 3,1lýt, lượng nước tiểu giảm xuống 2,7 lýt. Xét nghiệm nước tiểu thấy tỉ trọng tǎng lên 1,020, đường niệu âm tính. Thể trọng cũng tǎng lên tới 62kg. Ngừng thuốc để theo dõi, sau 2 tuần không thấy bệnh tái phát, ngày 8 tháng 8 nǎm 1964 ra viện.
– Bàn luận: Từ thực tiễn lâm sàng, chúng tôi thấy dùng bài thuốc Tam nhân lộc nhung hoàn làm cơ sở để điều trị đái tháo nhạt thu được kết quả khá lý tưởng. Trong quá trình điều trị bệnh nhân nêu trên, trước tiên dùng thuốc thấy mặc dù có giảm khô cổ, giảm lượng nước tiểu, nhưng không thấy rõ giảm khát nước, không giảm lượng nước uống vào, lại thêm tái phát di tinh, nếu đổi phép trị sợ không tránh khỏi sai một ly đi một dặm. Vì nghĩ rằng Nguyên sâm, Mạch đông dùng quá nhiều có trở ngại thận dương bốc lên trên thủy khí, Phục linh lợi thủy thẩm thấp, Ngưu tất tuyên đạo hạ hành, càng làm thiếu âm không giữ được, hạn chế vô quyền, tinh dịch chảy xuống phía dưới, cho nên vẫn cho dùng bài thuốc này nhưng giảm bớt lượng Nguyên sâm, Mạch đông, không dùng Phục linh, Ngưu tất, cho thêm Tang phiêu tiêu và Kim tỏa cố tinh hoàn, nên thu được hiệu quả tốt. Từ đó chứng minh rằng khi vận dụng các bài thuốc cổ, không được rập khuôn máy móc, cần phải hiểu cho thấu đáo và vận dụng linh hoạt mới thu được kết quả thật tốt.
27. ĐÁI THÁO NHẠT
– Biện chứng đông y: Thấp đục ẩn bên trong, mất chức nǎng thǎng giáng.
– Cách trị: ích khí cố sáp.
– Đơn thuốc: Cố phao phương.
– Công thức:
Hoàng kỳ 30g | Thǎng ma 6g |
Cát cǎn 20g | Thiên hoa phấn 15g |
Tang phiêu tiêu 15g | Đoạn mẫu lệ 30g |
Ngũ vị tử 12g | Bạch truật (sao) 10g |
Trần bì 6g | Cam thảo 6g |
Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
– Hiệu quả lâm sàng: Trương XX, nam, 27 tuổi. Ngày 15-8-1976 do đổ nhà bị thương ở gò má phải, chảy ít máu, hôn mê mất khoảng 2 giờ. Một tuần sau xuất hiện uống nhiều đái nhiều, càng ngày càng trầm trọng, cứ 10 phút lại phải tiểu tiện 1 lần, 1 ngày đêm uống tới 10-12 bình nước. Trước đây người khỏe mạnh, không có tiền sử bệnh mạn tính. Đã điều trị tại một bệnh viện, dùng nhiều loại thuốc nhưng vô hiệu. Ngày 18 tháng 9 tới khám và điều trị. Khám thấy phía dưới đuôi mắt phải còn vết sẹo dài, mi mắt phải bị nứt hẹp, vùng bị thương hơi sưng, ngực và hai chân có những vết xây sát dài trên da. Tỷ trọng nước tiểu 1,005, đường niệu âm tính, đường huyết 92mg %, Kali huyết 22mg%, Clo huyết 600mg%, Natri huyết 306mg% khả nǎng kết hợp carbonic 61,7 thể tích %, Nitơ không protêin 33mg%. Thành phần máu: bạch cầu 6.200/mm3, trung tính 74%, lymphô 26%, các xét nghiệm khác không thấy gì khác thường. Mạch tế xác mà yếu, chất lưỡi đỏ, thân lưỡi nhỏ, rêu vàng khô, thuộc chứng phế thận khí âm đều hư. Cho dùng “Cố phao phương”, tùy theo các triệu chứng mà gia giảm, dùng liên tục hơn 30 thang, các chứng đều lui giảm, lượng nước uống vào từ 10-12 bình giảm xuống 1-2 bình một ngày, tinh thần và ǎn uống như bình thường, các xét nghiệm đều hồi phụ bình thường, sau khi ngừng thuốc tiếp tục theo dõi đến ngày 8 tháng 11 ra viện. Sau khi ra viện vẫn tham gia lao động bình thường, tình trạng sức khỏe tốt.
198. ĐAU ĐẦU DO MẠCH MÁU
– Biện chứng đông y: Ngoại cảm nội thương, ứ trở mạch đạo.
– Cách trị: Khử tà an lý, thông kinh hoạt lạc, hóa ứ chỉ thống.
– Đơn thuốc: Đầu thông linh thang.
– Công thức:
Đương quy 10g | Xuyên khung 15g |
Sinh địa hoàng 10g | Bạch thược 15g |
Đào nhân 10g | Hồng hoa 10g |
Phòng phong 10g | Bạch chỉ 10g |
Khương hoạt 10g | Độc hoạt 6g |
Câu đằng 20g | Kê huyết đằng 30g |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu kiêm phong hàn thì thêm Ma hoàng 10g, Tế tân 10g, Phụ tử 10g, kiêm phong nhiệt thì thêm Sinh thạch cao 30g, Sài hồ 10g, Hoàng cầm 10g, kiêm ứ huyết thì tǎng thêm lượng vị thuốc hoạt huyết trong bài thuốc, lại thêm Xích thược 10g, kèm đờm thấp thì thêm Ngũ linh tán; kèm can thận âm hư thì thêm Sinh long cốt 30g, Mẫu lệ 30g, Sinh địa tǎng lên 15g.
– Bàn luận: Qua thực tiễn lâm sàng nhận thấy áp dụng bài Đầu thông linh thang có gia giảm thích hợp để điều trị, ngoài bệnh đau đầu do mạch máu ra, đối với chứng đau đầu do cǎng thẳng, đa số trường hợp đều thu được kết quả khá tốt. Ngoài ra trong khi điều trị, sau khi dùng thuốc được vài thang, lượng Xuyên khung trong thang có thể tǎng lên 20-30g. Còn khi chữa đau đầu do cǎng thẳng thì vị Bạch thược trong thang có thể tǎng đến 30g. Nếu người bệnh kiêm cả mấy dạng thì có thể dùng kiêm cả mấy dạng kể trong bài thuốc. Thực tiễn lâm sàng chứng tỏ dùng như thế kết quả điều trị rất tốt.
Để lại một phản hồi