BÍ ĐÁI
– lâm sàng: Vương XX, nữ, 69 tuổi, nội trợ. Khám lần đầu ngày 8-4-1980. Người bệnh kể, tiêu tiện không thông đã 12 ngày. Trước khi tới khám đã nằm điều trị nǎm ngày ở trạm xá địa phương. Đã thông đái, dùng neostignin, châm cứu, uống thuốc Bổ trung ích khí thang, kết quả không rõ, vẫn phải thông đái, bỏ thông đái lại bí như cũ. Nên 10 giờ tối ngày 7-4-1980 đến khám. Đã kiểm tra Nội khoa, Ngoại khoa, X quang đều không phát hiện điều gì khác thường, nên ngày 8-4 chuyển sang chữa đông y. Người bệnh tiểu tiện không thông, bụng dưới trướng nặng, lưng mỏi, sắc mặt vàng võ, tinh thần mệt mỏi, yếu ớt, tứ chi tê dại, không ấm, đầu váng, hơi thở ngắn, lưỡi nhạt, rêu mỏng trắng, mạch tế nhược. Cǎn cứ vào chứng và mạch thấy đây là chứng thận dương hư, bàng quang khí hóa thất thường. Phải trị bằng ôn thận thông dương hóa khí hành thủy.
– Biện chứng đông y: Thận dương hư, Bàng quang khí hóa thất thường.
– Cách trị: ổn thận thông dương, hóa khí hành thủy.
– Đơn thuốc: Ngũ linh tán và Sâm phụ thang gia vị.
– Công thức:
Quế chi 10g | Phục linh 15g |
Bạch truật 10g | Trạch tả 10g |
Trư linh 10g | Đảng sâm 15g |
Phụ tử 10g | Ô dược 12g |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Khám lần 2 ngày 12-4; Sau khi uống 2 thang thì rút ống thông đái, uống hết 3 thang đến 5 giờ chiều ngày11 thì tự đi tiểu được 1 lần ra khoảng 400 ml, đến tối số lần đi tiểu tǎng lên dần, cứ khoảng 7-8 hoặc 10 phút lại đi 1 lần, lượng nước tiểu không nhiều, cả đêm không ngủ, đến sáng hôm sau đi tất cả khoảng 30-40 lần. Bệnh nhân mệt vô cùng, đã hết chứng bệnh, lưỡi chuyển hồng nhạt, mạch vẫn tế nhược. Cho bệnh nhân ra viện dặn uống thêm 3 thang nữa. Ngày 18 tháng 4 con bệnh nhân đến cho biết mỗi ngày đi tiểu 6-7 lần, không có khó chịu nữa, tinh thần và thể lực đã khôi phục, đã làm được công việc nội trợ bình thường. Cho uống Kim thận khí hoàn 3 ngày để củng cố thêm.
163. BÍ ĐÁI
– lâm sàng: La XX, 38 tuổi, xã viên. Bệnh nhân viêm phổi, sốt cao hôn mê, bí đái mà vào viện. Bệnh viện dùng các thuốc kháng sinh kết hợp với hormon, đồng thời thông đái, đến ngày thứ tư thì hạ sốt, thần trí tỉnh táo. Tuy khỏi viêm phổi rồi vẫn chưa hết bí đái, dùng thuốc tây…. nhiều lần không khỏi, cần phải đặt ống thông liền 2 tuần. Vì sức yếu, nằm lâu, mông bị loét. Sau đó lại châm cứu và đắp ống gạo vào rốn vẫn không hết bí đái.
– Biện chứng đông y: Tà nhiệt ngụ ở hạ tiêu, thận quan không làm chức nǎng đóng mở, bàng quang khí hóa vô lực.
– Cách trị: Ôn dưỡng thiếu hỏa, thǎng thanh, giáng trọc.
– Đơn thuốc: Gia vị thông quan hoàn (thang).
– Công thức:
Tri mẫu 10g | Hoàng bá 10g |
Nhục quế 10g | Thục phụ phiến 10g |
Chỉ xác 10g | Thǎng ma 4,5g |
Sắc uống.
Uống xong bệnh nhân thấy nhu động ruột tǎng, sau 1 giờ thì tiểu tiện thông lợi.
– Bàn luận: “Gia vị thông quan hoàn” bắt nguồn từ bài “Thông quan hoàn” (còn có tên Tư thận hoàn, trong sách “Lam thất bí tàng” của Lý Đông Viên. Bài này có 3 vị Tri mẫu, Hoàng bá, Nhục quế chủ trị nhiệt ở phần huyết của hạ tiêu, bệnh nhân bí tiểu tiện. Lấy cái khổ hàn của Tri bá mà tả hạ tiêu lại dùng 1 lượng nhỏ Nhục quế để giúp khí hóa do đó mà đạt được tác dụng thông lợi tiểu tiện. Bài này tǎng lượng Nhục quế phối ngũ với Phụ tử, nhằm ôn dưỡng thiếu hỏa, lấy thiếu hỏa để sinh khí. Lại dùng thêm Chỉ xác, Thǎng ma nhằm làm cho thanh dương thǎng mạnh, trọc âm tụ giáng xuống do đó mà tiểu tiện thông lợi.
Để lại một phản hồi