Iẽ Khái niệm
Chứng Xung Nhâm hư Suy là chỉ hai mạch Xung Nhâm hư suy dẫn đến cơ năng sinh thực bị suy thoái xuất hiện một số chứng trạng; Phát sinh hư suy phần nhiều do hậũ thiên Xung Nhâm tổn thương hoặc tiên thiên Xung Nhâm chưa đày đủ là những nhân, tố gây nên bệnh.
Chứng Xung Nhâm hư suy gặp khá nhiều trong tật bệnh thuộc Phụ khoa, biểu hiện cụ thể là: hành kinh muộn (xụt)i hành kinh lượng ít, bê kinh, không thụ thai v.v… r
Chứng này thường gặp trong các bệnh Nguyệt kỉnh hậu kỳ, Nguyệt kinh quá thiểu, Bế Kinh, Bất dựng.
Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Xung Nhâm không bền.
Phân tích
Xung Nhâm có quan hệ mật thiết với tạng Thận, ví dụ như Thượng cổ thiên chân luận sách Tố Vấn viết: “Con gái 7 tuổi Thận khí thịnh, răng đổi tóc dài, 14 tuổi thì thiên Quí đến, Nhâm mạch thàng, Thái xung mạch thịnh, kinh nguyệt đúng kỳ ra, cho nên có con”. Kỳ bệnh luận sách Tố Vấn viết: “Bào lạc ràng buộc với Thận”. Vì Xung mạch và Nhâm mạch gốc đều từ tạng Thận, cho nên chứng Xung Nhâm hư suỵ trên lâm sàng đều cđ những biểu hiện Thận hư, cđ thể chia hai loại:
Một loại là biểu hiện lâm sàng chỉ mạch Nhâm mới bị bệnh,
ví dụ, như tuổi quá muộn mới hành kinh làn đàu, kinh nguyệt kéo dài, lượng ít sắc nhạt, bế kinh, không khả năng thụ thai, hoặc hay sẩy thai, thậm chí béo mập, nhiều lông, phù thũng, bí sữa v.v…
Một loại chủ yếu là chứng trạng toàn thân ví dụ như thờ ơ về sinh lý, lưng gối yếu mỏi, váng đầu ù tai, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch Tràm Tế hoặc Trầm Trì.
Vì mức độ Thận hư khác nhau, cho nên chúng Xung Nhâm hu suy biểu hiện chứng trạng chủ ỵếu cũng chia ra nặng và nhẹ. Thuộc loại nhẹ chứng trạng đầu tiên thường hay gặp ỉà kinh nguyệt thấy muộn (xụt) hoặc kinh nguyệt lượng ít, nếu vì dùng dầng chữa khồng kịp thời hoặc điều trị không thỏa đảng dẫn đến Xung Nhâm suy kiệt, có thể phát triển thành Bế kinh. Thuộc loại nặng cũng có thể đầu tiên phát bệnh Bế kinh. Mà trong bệnh Bất dựng (không thụ thai) thì phần nhiều cùng phát sinh các chứng trạng như nói ở trên.
Kinh nguyệt ra muộn lấy chu kỳ thời kỳ cuối kéo dài là chứng chủ yếu. Kinh nguyệt quá ít lấy lượng kinh ra ít ỏi là chứng chủ yếu. Bế kinh lấy nguyệt kinh không thàng là chứng chủ yếu hoặc có kiêm sắc mặt xạm xỉnh, hoặc mặt nổi tàn nhang vàng xậm, hoặc cđ các chứng béo mập, nhiều lông, phù thũng, trào sữa, lông tóc rụng v.v…
Chứng kinh nguyệt quá ít phần nhiều xuất hiện trong quá trình diễn biến kinh nguyệt quá muộn hướng đến Bế kinh.
Chứng Bế kinh trải qua điều trị, nếu như lại hành kinh lần nữa thì thường chuyển biến thành kinh nguyệt muộn hoặc thành chứng lượng kinh quá ít.
Nếu Bế kinh quá kéo dài là nđi lên Xụng Nhâm suy kiệt, thường khiến cho âm dương trong co thể mất thăng bàng mà có nhiều biốn chứng như sốt dữ dội, vã mồ hôi, sợ lạnh, hồi hộp, tinh tự khỗng Ổn định, dễ kích động, tinh thần căng thẳng, mất ngủ, choáng váng, tai ù, mỏi mệt, đau cơ thể v.v…
Những chứng bệnh nói trên, điều trị đều lấy điều bổ Xung Nhâm làm chính, dừng bài Đương qui địa hoàng ẩm (Cảnh Nhạc toàn thư) gia vị. Nếu người bệnh thuộc thể trạng đàm thực thì có kiêm chứng béo mập, nhiều lỏng, phù thũng, loại đàm này ỉà do Thận hư không thể hun hốc được tân dịch gây nên, điều trị nên theo phép bổ ThẠn hóa đàm, dùng bài Lộc giác sương ẩm (Trung y chứng trạng giám biệt chán đoán học).
Những phép chữa nêu ỏ trên chỉ là phép tắc chung để điều trị ba chứng bệnh, nguyên nhân hình thành còn bao quát cả những nhẮn tố khác như Xung Nhâm khí trệ, Xung Nhâm ứ trở. Nhưng những chứng hậu ấy thường do nguyên nhản bên trong ỉà Thận khí bất túc, vì vậy chúng ta cần chú trọng vào phân tích chứng hậu mới có thể có nhận thức chính xác và đầy đủ về chứng Xung Nhâm hư suy.
Phát sinh chứng này còn có quan hệ tới những nhân tố tương ứng như tuổi tác, thể chẵt, khí hậu thời tiết và hoàn cảnh khu vực. Căn cứ vào những điều gặp trong lâm sàng, chúng này gặp nhiều ở phụ nữ tuổi thanh xuân, cư trú ở khu vực hàn đới hoặc phụ nữ làm việc ở ndi ÔĨ1 độ thấp, hơn nữa tỷ lệ phát bệnh về mùa Đông khá cao. Cho nên khi khám chữa chứng này cần nắm vững lứa tuổi và nhân tố biến hóa khí hậu, nhân nhân chế nghỉ, nhân thời chế nghỉ. Ngoài ra sau khi đẻ ra nhiều huyết dẫn đến Xung Nhâm đột ngột suy kiệt mà dẫn đến Bế kỉnh, càng nên điều trị kịp thời.
Chẩn đoán phân biệt
Chứng Xung Nhâm không bền với chứng Xung Nhâm hư
suy, cả hai đều là Hư chứng của tạng Thận, nguyên nhân bệnh phần nhiều do Thận tinh tiên thiên bât túc, Xung Nhâm chưa đầy đủ, hoặc do tảo hàn, sinh đẻ nhiều làn, phòng thát không điều độ dẫn đến Thận^khí hư suy. vì tinh khí tạng Thận bất túc, Can huyết không dồi dào, cho nên hai chứng này đều ctí thê’ xuất hiận các chứng thờ ơ sinh lý, lưng gối mềm yếu, váng đàu ù tai, ỉưỡi nhạt rêu tráng mạch Trầm Tế. Nhưng cơ chế bệnh hai chứng này khác nhau. Loại trên lây Thận khỉ bổt tức là chủ yếu, khí hư thì Xurig Nhâm khổng bền, kinh nguýệt mất sự co thát, cho nên phát sinh các chứng Kinh ngùyệt sớm, Kinh nguyệt quá nhiều, Băng lậu, Lậu thai, tiểu sản, ác lộ không dứt, đái hạ v.v… Loại sau lấy Thậii tinh bất túc là chủ yếu, tinh hư thỉ Xung Nham mát sự nuôi dương, huyết hải rỗng không, cho riêh phát sinh cốc chứng kỉnh nguyệt muộn, kinh nguyệt lượng ít, Bế kỉnh, Bất đựng, chất tiết dịch ở âm đạo giảm ít. Hai chứng, một chú trọng về Khí, một chú trọng về Tinh; điều trị nên có chỗ cói trọng. Nhưng tinh do khí sinh ra; Khí nhờ tinh mới biến hóa được, giữa hai loại này dựa vào nhau mà tồn tại, cđ mối hỗ căn chuyển hóa lẫn nhau. Cho nên Trương Cảnh Nhạc có nói: Khéo trị tinh có thể khiến cho sinh khí ở trong tinh; Khéo trị khí cđ thể khiến cho trong Khí sinh ra tinh… Đó là lời bàn có kinh nghiệm trong lâm sàng.
IV. Trích dấn y văn
Nhâm mạch hư, Thái xung mạch suy giảm, Thiẽn quí kiệt, địa đạo không thàng, cho nên cơ thể bại hoại mà không có con
(Thượng cổ thiên chăn luận – Tó Ván).
Có 36 loại bệnh của Phụ nữ, đều đo Xung Nhâm hao tổn gây nên (Phụ nhăn lương phương).
Thận khí toàn thịnh thỉ Xung Nhâm lưu thàng, kinh huyết dồi dào đúng kỳ hành kinh, trái lại là không thàng (Phụ nhân dại toàn lương phương).
Sở dĩ phụ nữ không có con Ịà do Xung Nhâm bất túc, Thận khí hư hàn vậy (Thánh tế tổng lục).
Có thai mà thai động không yên do Kinh Xung Nhâm bị hư, thụ thai không bền chác (Phụ nhăn dại toàn lương phương).
Để lại một phản hồi