Chứng thủy khí lăng tâm

Khái niệm

Chứng Thủy khí lăng Tâm !à tên gọi chung cho nhữag chứng trạng do thủy ắm đ đọng ở trong làm chèn ép Tâm dương cổ đặc trưng chủ yếu là hồi hộp đoản hơi; Bệnh phần nbỉều do Tỳ Thận dương hư hoặc Tâm Thận dương hư gây nên.

Biểu hiện chủ yếu trên l&m sàng là hối hộp chóng mặt, lợm lòng nôn mửa, cơ thề lạnh, chần tay lậnh, đoản hơi, tiểu tiện không lợi, ngực bụng bĩ đầy, khát mà khống muón uổng nước, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Huyền hoặc Tế Hoạt.

Chứng này thường gặp trong các bệnh Tâm quí, Huyễn vậng, Khái suyễn.

Cần chẩn đoán phán biệt với các chứng Tâm dương hư, ủhứng Thận dương hư.

Phân tích

ũhđng Thủy khỉ lăng Tâm d trong những tật bệnh khác nhau nên về lftm sàng’ cũng bỉểu hiện những độc điểm riêng, và phép trị cũng khỏng toàn tơàn giồng nhau.

Trong bệnh Tâm quí xuất hiện chứng Thủy khí lang Tâm, thường cd những chứng trạng đặc điểm như hồi hộp, đoản hơi, ngực khđ chịu, cơ thể lạnh, chân tay lạnh, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi tráng, niạcb Tràm; nguyên nhân phàn nhiều do Tỳ Thận dương hư, không nung nấu ngấu nhừ thủy cốc, ứ đọng lại thành Âm xâm lãng lên vùng Tâm mà thành bệnh; điều trị nên ích khí ôn dương hành thủy, dùng bài Quế chi cam thảo long cốt mẫu lệ thang (Thương hàn luận).

Chứng Thủy khí lăng Tâm xúất hiện trong bệnh Huyễn vậng, biểu Hiện lâm sàng có những đặc trưng như chóng mặt nôn mửa, hồi hộp, ngực bụng đầy tức, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Hoạt hoặc Tràm Huyền, nguyên nKãn phần nhiều do thủy ẩm ứ đọng ở trong, chútc Dăng vận hóa ở Trung tiêu kém, thủy ẩm nghịch lên gây nên. bệnh; điều trị nên ôn trung hóa ẩm lợi thủy, cho uống bài linh quế truật cam thang (Thượng hàn luận). ‘ ,

Trong bệnh Khái sụyễn xuát hiện chứng Thủy khị lãng Tâm, biểu hiện lâm sàng là khái suỵễn, đoản hơi, hồi hộp, tiểu tiện không lợi, thậm chí chân tay phù thũng, chất lưỡi nhạt bệu, mạch Trầm Tế, đây là do dứơng hư thụy nghịch, xâm lãng lên Tâm Phế gây nên bệnh; điều trị theo phép ôn dường lợi thủy, đùng bài Chân vũ thang (Thương hàn luận).

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Tâm dương hư với chứng Thủy khí lảng Tâm, cả hai đều biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hồi hộp đoản hơi, lâm sàng càn phải chẩn đoán phân biệt cho rõ ràng. ; – ■ í >

Chứng Tâm dương hư phần nhiều phát triển từ cơ Ểô của chứng Tâm khí hư. Tâm chủ huyết mạch, Tâm dương bỗt túc thì sức cổ động yếu cho nên hồi hộp đoản hơi, hệ động lậm thì nặng thêm. Dương khí hư suy, huyết đi trì trệ, Tâm huyết ứ nghẽn thỉ chứng Tâm dương hư thường kèm theo bứt dứt vùng Tâm hung hoặc đau, sắt mật xạm xĩnh, lưỡi tím tái hoặc có nốt ứ huyết, đó là hiện tượng ứ-huyết rõ rệt. Còn chứng Thủy khí lãng Tấm thuờng ít thấy biểu biện phứng hậu huyết ứ.

Hai chứng tuy đều có hiện tượng hồi hộp đoản hơi, nhưng loại trên, hễ động làm thỉ bệnh tâng và có đặc điểm của các chứng huyết hư và huyết ứ; Còn loại sau thỉ không có dấu hiệu Khi hư và cũag không có hiện tượng ứ huyết, nhưng lại có đặc trưng là tiểu tiện không lợi và chần tay phù thũng do thủy tà lưu trệ. .Đấy là những điểm chủ yếụ để chẩn đoán phân biệt giữa hai chứng trên ỉâm sàng.

Chứng Tâm dương hư mạch phần nhiều Tế Nhược hoặc Kết Dại còn chứng Thủy khí lăng Tàm mạch phần nhiều Huyền. Chứng Tâm dương hư khống có hiện tượng thủy ấm nghịch lêíỊ cho nên khòng như’chứng Thủy khí lãng Tâm cổ chứng trạng chỏng mật, nôn mửa buồn nốn và ngực bụng bĩ đầy đó là chồ khác nhau của hai chứng bệnh.

Chứng Thận dương hư với chứng Thủy khí lăng Tâm: Chứng Thận dương hư do phú bẩm bất túc, thể chất vốn dương hư hoặc do ỐĨ11 iâu không khỏi, do phòng lao quá mức gây nên

Nếu Thận dương hư suy, hạ tiêu thủy bị lạnh, không khả nảng chống đỡ, thủy tà tràn lên trên, xâm lãĩig tới Tâm làm cho hồi hộp, dễ lẫn lộn với chứng thủy khi lảng Tâm. Nhưng chứng Thận dương htí có chứng trạng chủ yếu là lưng gối yếu mỏi, sợ lạnh chân tay lạnh, dươiìg nuy hoạt tinh; nếu là phụ ntí thì tử cung bị lạnh khỗng thụ thai được; biểu hiện lâm sàng ed chỗ khác vớỉ thủy khỉ lãng Tâm. Vả lại, Thận dương bất túc, đến nỗi dương hư thủy tràn lên, xầm lâng lên Tâm khiến cho hồi hộp-SỢ sệt Hên tục, chứng Thủy khí ỉăng Tâm là hồi hộp đoản hơi. Ngoài ra, chứng Thận dương hư không khà năng hóa thủy, thủy dịch tràn lan cho nên tiểu tiện không lợi; Dương hư không sưởi ấm.được cơ nhục thi C(ỉ báp máy động. Lưng là phú của Thận, Thận dương hư thì lưng gối mỏi lạnh; Thận chủ chứa tinh, Thận dương bất túc thì tinh khí không bền, cđ chúng dương nuý, hoạt tinh. Thận dương bất túc, bên trong lạnh, nước ứ đọng thì mạch Trầm lưỡi nhợt. Chứng Thủy khí lăng Tâm là do Ẩm tà nghẽn trở Trung tiêu, tân dịch không phân bố đều, xuất hiện chứng trạng dưới Tâm nghịch 4ày. Thỏy ẩm ứ dọng ở trongị Tỳ Vị mất sự vận chúyển thì mệt mỏi kém ăn, sắc mật khống tươi, mạch Trầm Huyền. Dấy là cơ sở chẩn đoán phân biệt giữa hai chứng.

IV. Trích dẫn y văn

Thủy ở Tâm thì dưối Tâm cứng nhắc, đoản hơi, sợ nước, không muốn uống. Thủy ở Thận thì dưới Tâm hòi hộp (Đàm âm khải tháu bệnh mạch chứng tinh trị đệ thập nhị – Kim Quỹ yếu lược).

Nếu có đình ẩm thủy khí lấn lên Tâm thì trong ngực cd tiếng sèo sèo, hư khí lưụ động, thủy đã lấn lên trển, Tâm hỏa khác lại cho nên dồn dập máy động, làm, cho người ta ngột ngạt, mạch hơi Huyền. Nghĩ như dưới Tâm có lưu ẩm, thì sau lưng có vùng lạnh giá to bằng bàn tay (Kinh quí chinh xung – Chứng trị vậng bố).

Đàm ẩm đều do tân dịch biến hổa ra; Đàm thì đục, Ảm thì trong; Nguyên nhân của Đờm là Họa, nguyên nhân sinh ra Ẩm là Thấp. Đàm sinh ra tìr Tỳ; thấp tháng thì chất tinh vi không vận. chuyển, từ đó mà ngưng kết; Hoặc úng tác ở khiếu của Phế, hoặc trôi đến đường kinh toại; Ẩm thì tụ ở Vị; hàn ứ đọng thi thủy dịch không trôi chẩy, vl thế mà tràn lan, hoặc ứ đọng ở dưới Tâm, hoặc thấm vào trong Ruột, đo là do Tỳ Vị thủy thấp, âm tà ngưng đọng. Phải làm cho dương khí kiện vận thì trọc âm mới giáng xuống, như ánh mặt trời chđi chang ở trên không thì xua tan tất cả đám mây; điều trị nên theo phép lý Tỳ trừ thấp.

Nếu là Thận dương hư, hỏa không chế thủy, thủy tràn lan thành đàm là Âm tà xông nghịch .lên, cho nên trong mà sạch, điều trị nên thông dương khoi thấp, tránh dùng các loại nhớt nhuận trợ âm, như các thang Tứ vật, Lục vị; Thận âm hư, hỏa át hun đốt kim; Hỏa kết lại thành đăm, khiến đàm bốc lên, cho nên dính mà đục; điều trị nên tư âm thanh nhuận, kiêng dùng các loại thuốc ấm trợ Táo, như các thang Nhị trần, Lục quân. Phép chữa cần phân biệt cho kỹ (Đàm ầm quyền 2 – Loại chứng trị tài).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*