Chứng saù khi đẻ bậi huyết xông lên là tên gọi chaiig chó một loạt chứng hâu nghiêm trâng sau khi đẻ ác lộ đáng lẽ râ lạí không ra, trái lại xông ngược lên Tặng Phủ gây nêti bệnh, thuộc loại chứng hậu rất nguỵ hiểm đái với lỉgitòỉ ttiới đẻ c&u phảĩ cđu chữa kịp thời. ■ ■•ì…; ■■■ . – ‘7:
5 Biểu hỉệỉí’ làm Sàng cbũ yếu là sau khỉ dẻ ác ìộ đinh trệ Idỉông rả Kbật tóò rà cuhg tất ít;i pkĩỉfn tắồ kgtíẽ lđiố tđiịtt Itóặc tă&ỉi.trí rối Toán,’ nóỉ năng điên cuâng, hoặc hôn Ittẽ dioáag váng,”khđtíg hđí được, hoặc mặt đỏ thô gấp, khối nghỉcỉi đổ mâù mối, hòệtt vặt vầ ẩu nghịch, bụng đầy trướng đaru, hoâò buồn nôn ân không được, chất lưỡĩ xặín, mậeh Huýền Tầ hoậc Tế Sắc.
Chứng sau khi đẻ bại huyết xông lên thường gặp trong cắc bệnh: Sáu Ếhi để huỳết xấu xốĩig ĩên Tâm; Sau khi đẻ nói và nhln quàng xiên; sau khỉ đẻ lồng lộn chạy cuồng; Sau khi’đẻ nối sàng ĩiơi cuồng; Sau khi đẻ như thấy qửy thần; Saii khi đẻ huyết vậng; Sau khi đẻ không íioi năng; Sau khi để Tâm thống Sau khi đề m đau Tâm bào lạc; Sau khi đẻ khái thấu; Sau khi đẻ trong họng
suyễn thở gấp; Saa khi đẻ bại huyết xông lên Phế; Sau fchi đẻ bại huyết xồng lên VỊ; Sau khi đẻ bại huyết xông lên Tỳ; ‘Sau khi đẻ ẩu thở; Sau khi đẻ sinh chứrig oẹ; Sau khi đẻ Sữ nghích không ăn được; Sau khĩ đẻ nôn mửa trướng bụng v.vf
Chứng này cần chẩn đoán phân biệt với các Chứng sau khi đẻ khí huyết bị hư dột ngột, Chứng sau khi đẻ V) hàn Chứng sau khi đẻ huyết hư khí cực…
Chứng sau khỉ đẻ bại huyết xỏng lên căn cứ vào chỗ huyết xíu xồng lên phạm vào các Tạng Phủ khác nhau, thổng thường lại chia ra ba loại: Bại huyết xững lên Tâm; Bại huyết xỏng lén Phế; Bại huyết xống lên Vị; Trong các y thư cổ điển, gọi chung 1& “Sản hậu tam xung” hoặc còn gọi là “Bại huyết tam xung”, mà biếu hiện lâm sàng ba loại này lại cố những đặc điểm nhát định, cho nén điều trị cũng khác nhau.
• Nếu chứng sau khi dẻ bại huyết xỏng lên xuát hiện khí xống lẽn Tâm, biểu hỉộn ỉ&m sàng sẽ có những đặc trưng chủ yếu là trong tám phiền táo, thần trí rổỉ loạn, nổi năng càn rỡ, hoặc cười, đi lung tung hoặc lột áo quần mà chạy, trèo cao mà hát bát thân sơ, như tháy qủy thần hoặc phát sinh bốn mô choáng váng, khỏng nái nông v.v. Mục Phụ nhân môn sách Trương thị y thông viết :*Bạỉ huyết sững lên có ba loại: Hoặc là hát múa cười nổi, hoặc ỉà nằm 0£bi chửi bới tức giận, thậm chí leo trèo mái nhà tưdng cao, nghiến răng vung tay, vùng vẫy múa may, gào thần gọi phật, đó là loại bại huyết xông lên Tâm”; ph&n nhiều do sau khỉ đẻ Tâm bị trống, huyết xấu đáng ra lại không ra, xống lên phạm T&m quấy rối tâm thần gây nén. Mục Sản hậu chúng tẠt môn sách Trần Ĩ6 Yẽm phụ khoa bổ giải viết :”Phát cuồng là chủ bệnh của Thủ Thiếu âm Tâm…dẩn đến bại huyết xông lên Tâm, cái thần vổ hỉnh chọi nhau với cái huyết hữu hình, chỉnh hư tà thực dột ngột phát cuống như thây ma qủi tự nd xố đến vậy*. Thày thuòc qua các dời lấy chủ chứng khác nhau, lại gọi là bệnh “sau khỉ đẻ nổi càn, tháy càn” là bệnh “sau khi đẻ chợt tháy qũi thần”, là bệnh “sau khi đẻ phát cuồng”, là bệnh “sau khi đề máu xấu vào Tâm”, là bệnh “sau khi đẻ chạy cuồng lung tung”, là bệnh “sau khi -đẻ huyết vâng”, là bệnh ‘sau khi đẻ khống’nói’* v.v. Điều tri theo phép hoạt huyết trừ ứ, dưỡng’ huyết an thần, cho uổng bài Hoa nhị thạch tán <Hòa để cục phtíong)
Nếú xu thế bệnh còn nhẹ chưa phát cuồng thì cho uống b&i Thát tiếu tán (Hòa té cục phuarig) gĩa Uất kim mà điềủ trị.
Nếu chứng sau khi đế bại huyết xống lên xuất hiện khí xông lên Phế, biểu hỉện lâm sàng sẽ cổ những đặc trưng chủ yếu là sau khi đẻ ác lộ không ra, ngực phiền táo khđ chịu, mặt đô suyễn đày, khái nghịch đổ máu mũi, thậm chí mặt xạm đen phát cơn sụyễn muốn chết, trong họng thở gấp, lưỡi xạm, mạch Huyền Tế. Mục Phụ nhân mồn sach Trương thị y thông viết :”Bạỉ huyết xống lên có ba loại… nếu mặt đỏ, ẩu nghịch muốn chết, gọi là xồng lên Phế”. Mục Sản hậu chúng tật môn sách Trần Tố Yêm phụ khoa bổ giải viết :”sau khi đẻ thd suyễn là do bại huyết xỏng lên Phế”. Đây là đo sau khỉ đẻ huyết khí hao thương, Phế khí hư suy, bại huyết không ra được, trái lại nhân chỗ hư mà xống lên, Phế mất sự tuyén giáng gây nên bệnh, là một trong bổn chứng nguy hiểm sau khi đẻ. Sách Khôn nguyên thị bảo viết: Cổ bốn chứng nguy hiểm sau khi đẻ, đổ là nôn mửa, mồ hôi trộm, tả lỵ và suyễn thở. Nếu cùng thấy một lúc ỉà cực kỳ nguy”, cho nên điều trị phải dùng ngay phép hoạt huyết trục ứ để cấp cứu, cho uống bài Đoạt mậah tán (Chứng trị chuẩn thắng), sau khi đã dịu tình hlnh thì nên bổ khí hóa ứ, cho uống bài Nhị vị sâm tô ẩm (Thương hàn bảo mệnh tập).
Nếu sau khi đẻ bại huyết xống lên xuất hiện khi xâm phạm VỊ, lâm sàng có biểu hiện đặc trưng là sau. khi đẻ ác lộ khổng xuống, bụng trướng đầy đau, no đầy nôn mửa khộng ăn được thậm chí nấc liên tục, chất lưdi xạm, mạch Tế sác; Mục Phụ nhân môn sách Trương thị y thông viết :”Bại huyết xông lên Vị”, nguyên nhân phần nhiều sau khi đẻ tổn thương Vị phủ, bại huyết liền thẹo xung khi phạm Vị (Xung mạch lệ thuộc Duang minh) Vị mẩt hòa giậng, khỏqg thu nhận được thủy cốc gây nên. Mục Sản hậu chúng tật môn sách Trần Tố Yêm phụ khoa bổ giải viết :”Vị là bể của thủy cốc… Nếu sau khi đẻ khí huyết <Jặ;suy, thủy Cốc đưa vao còn ít, VỊ khí vốn bư,.bại hụyêt xông lên đột ngột vào VỊ khẩu, huyết với thủy cốc cùng chọi nhau, khí không tuyên thông cứng gâỷ đáu; Ẩc lộ đá không xuổng được, thủy cốc lại không đưa vàọ được, đổ là con đường chiết răt chòng”; Diều trị nêji hoạt huyết hđẫ ữ, an VỊ chốnẹ nôn, cho uống Để thánh thang (Phụ nhân đại toàn lương phường).
Chứng sau khi đẻ bạo huyết xông lên, khi, thấỵ xông lên Tạm Phế, thường đột ngột cảm nhiễm phong hàn đến nỗi thành sau tói để bị mẩt tiếng không nói được, biểu hiện lâm sàng cđ đặc trưng là lưỡi cứng không noi) trong họng khò khè co. tiếng ve kêu. VÍ sau khi đẻ bại huyết xông lên ‘ýâm Phế, khí với huyết đồng khởi; Sau khi đẻ bại huyết xông Ịện Tậm, nếu lạc mạch của Tâm bị thương ‘có thể dận đến sau khi đẻ đau Tâm bao lạc. Nếu tổn thương chính kinh của Tâm thì cố thể phát sinh bệnh Chân tâm thống sau khi đẻ, như mục Sản hậu tâm thống chủ phương sách TháỊ bình thánh” huệ phựơụg viết :”Nghĩ nhự sau khi đẻ bị Tâm thống, đổ là Tạng bị hư, gập phong lạnh ẩn nau cùng chọi nhau vổí huyết khí mà thành khí nghịch, xông lên biệt lạc của Tâm thì thành Tâm thống, Chứng Tâm thống lúc nghẹt, lúc căng, đó là nhấnh tìiệt lạc của Tâm bị tà khí làm tổn thương; Nếu tà khí làm tổn thương chính kinh của Tâm thì là Chân tâm thống, sáng bị tối chết, tối phát sáng chết”, đều xuất hiện chửrig trạng móng tay chân tím tái, chân4 tay lạnh thấu đốt xương, phải cấp cứu ngay bấng Dại nham mật hoàn (Trần Tố Yếm phụ khoa bổ giải).
Chứng Sản hậu bại huyệt xông lên là chứng rát nguỵ hiểm đối với người mới đẻ, thường do xâm phạm các Tạng Phủ khác nhau mà biểụ hiện lâm sàng bặt nhất và tùy thea thể trạng khác nhau của sản phụ mà biến hóa đa đoan, có khi kiêm cả nhiềụ chứng hậu. Mỗi khi gặp bệnh nầy, tniớc hết nên phân biệt bệnh tại Phế, tặi Tâm hay tại Vị để cấp clíù nguy cơ, Mục Phụ nhân môn sách Ttứơng thị y thông viễTt: bại để chứng xông lên Tâm, mười người may ra cứu đượớ một; Xông ĩên VỊ thl hăm người sổiig hăm người ctíết, Xông lên Phế thì mườỉ người cứủ được một, hải:!
Ohứng sau khi đẻ khí huyết hư đột ngột với chứng Sau khi đẻ bại huyết xâm phạm Tâm : Loại trẻn tìiường dơ môi đẻ âm huyết bị Itíất đột ngột’ Tâm! thần mất’ ntiôi dưỡng gây nên. Sáu khi đẻ‘đột nhiêtì choáng váng, hồi hộp sợ sệt, thầm chỉ hôii lĩiê khôĩig biết gỉ chứng huyết hứ khí thốát fất ngữy^véS“lbặi sèu là do sau khi đẻ bại huỷết xông lên Táìri, quấy rối tâm éhắri ■ gấỷ nên nguy hiểni, có câè’ chứhg trạng aướt tâtií cả-ng tức, thở thô và suyễh, tinh thần hôn mẽ cấm khẩu, Mt tinh nhằa 3ự… Gầíi phải phân biệt ti mỉ; vì cả hai loậi đều riguý đến tính mạng,sân phụ. Đấy là những yếu điểm để phân’ biệt hai chứng, thực nhtí mục Trị sản hậu huyết vặn muộn tuyệt chư phương sách Thái binh thánh huệ’phương viết :”Nghì nhử húyết vận phiền iÃủỢĩi khí muốả íuyệt Iâ do sau khi đẻ huyết ra quá nhiều,; huyết Kử khí cực, vì thế mà vậả túyệt vậy. Láí như huyết ra ít mà khí tìêhịch cực tìộ, thì hùyềt theo khí xông lên tâm cững khiến cho vấn mtíộn mà đầy càrig. Nhưng cũng nên xét tới sân ptiụ ra huyết’ nhiều hay ít…” Ngoài vấn đề này còn phải xem xét tới kiêm èhững, để giúp cho chẩn đoán. Bởi vì loại trên phải thấy sác mật tíằng xạnh, lưỡi nhạt, mạch Vi Tế muốn tuyệt là hiện tượng khí huyết mãt đột ngột. Loại sâu thi nên thấy các chđng bụng dưới đàu cự án, sác mật tỉa tối, chát lưỡi tổi, mạch Sấc, đó là chửng hậu bại huyết đỉnh trệ. Cái gMà Hư cái gỉ là Thực, qua đổ mà phận biệt.
Chứng sản hậu Vị hận với chứng sau khi đj§ bại huyết,xống lên phạm VỊ : Cả hai đều là chứng hậu chủ yếu của bệnh ẩu nghịch sạụ khi đẻ. Nhưng loại trên biểu hiện lâm sàng phần nhiều vùng bụpg lạnh đau, ưa nóng, lưỡi nhạt, mạch Tràm Tri vô lực đó là chứng hậu hư hàn. Còn loại sau thì phần nhiều có các chứng trạng huyết xăù ứ đọng như bụng trưồng đầy đau, no đầy buồn nôn, ẩu nghịch không ăn được, lưỡi xạm, mạch Tế Sấc. Ngoài ra ác lộ khổng ra hoặc có ra nhưng rất ít cũng là chứng trạng chỉ riêng chứng nầy mởi có. Một loại là vỉ bàn tà nhAn chỗ hư mà phạm Vị; Một loại là bại huyết khỗng xuống, xông lẽn Tỷ Vị. Loại trên thuộc Hàn; loại sau là ứ; hai loại có thể phAn biệt. Về dièu trị, chứng sản hậu V) hàn thỉ nên ôn trung tán hàn; chứpg bại huyết xổng lên Vị thỉ nên hoạt huyết khư ứ, giáng nghịch chống nôn.
Chứng sản bậu huyết hư khí qực với chứng sau khi đẻ bại huyết xông lên phạm Phế : cả hai đều có đặc trưng là suyễn gấp, cùng là chứng nguy hiếm sau khi đẻ. Yếu điểm đế chẩn đoán phân biệt là xem xét huyết ra nhiều hay ít. Mục Suyễn sách Thắm thị nữ khoa tấp yếu tiễn chính viết ‘.”Suyễn có hai chứng Bế và Thoátẳ Ha huyết quá nhiều là Thoát chứng… ác lộ ra không nhanh là Bế chứng”. Mục Sản hậu chúng tột môn sách Trần Tố Yêm phụ khoa bổ giải viết: “Nếu huyết xấu nhAn thể trạng hư, tìt dưới mà đi ngược lên, xông thảng lên Phế thỉ mật sạm đen mà phát suyễn”, lại viết :”Khi hư phát suyễn thì sác mặt phải tráng xanh, đầu và trán ra mồ hôi lạnh, còn ân uống được”. Xem xét kiêm chứng, có thể dựa vào đđ mà phAn biệt.
IV. Trích dẫn y văn
Sau khi dẻ nh&n sợ hâi, bại huyết xổng lân T&m, hỗn muộn phát cuồng, như có qủy ám (Sản hậu chư tật môn – Phổ tế phương).
Và : Sau khi đẻ huyết xấu xống lên Tâm, mất tổi sầm, hoặc phát nóng rét hoặc sinh nổi cuồng, hoặc đau bụng không chịu nổi (aách đă dán).
Sau khi đẻ trong sáu bảy ngày Suyễn là bại huyết xỗng lên Phế, ngoài bảy ngày phát suyễn là mới dẻ huyết ra quá nhiều, vinh huyết bị kiệt đột ngột. Vệ khí khững cổ chủ, một mỉnh tụ lại trong Phế cho nên khiến suyễn gấp. Đ&y là cổ Dương tuyệt âm, mạch Phục mà Quyết, một có sấc đen là khd chữa, nên dùng Khung Qui định xuyễn thang (Sản hậu chứng tật mồn – Trần Tó Yêm Nữ khoa bổ giải).
Và : Bại huyết xổng lên Phế phát suyễn vói huyết hư dương khống nơi dựa phát suyễn tuy cá chia ra Hư, Thực nhưng chỉ do một sản hậu mà thữi. Sản hậu huyết hư, bại huyết nh&n chỗ hư mà xống ngược lên vào Phế gây nên Suyễn, chủ yếu nên trừ ứ mả kiêm bổ để sinh huyết mới. Nếu sản hậu huyết hư, cỏ dương khỗng có chủ mà đọng lại ở Phế phát suyễn, chủ yếu lấy ích khí mà kiêm chổng Phế suyễn (sách đă dán).
Bại huyết vào tạng Can, chân tay co rút và co giật giống như trúng phong (Bỉ truyèn Nội phủ Kinh nghiệm nữ khoa)
Và : Sau khi đẻ tổn thương do ân mà bị mửa, huyết cũng theo khí mà nghịch lên phạm vào Tỳ Vị, cho nén ọe mửa khỏng &Đ được (sách đă dán).
Để lại một phản hồi