Chứng phế khí âm đều hư

chứng phế khí âm đều hư

Chứng Phê khí âm đều hư là tên gọi tóm tát do Phê’ khí bất túc, tân dịch bị tiêu hao, tnẫt chức năng tuyên giáng, lâm sàng biểu hiện tông khí hư ỹếu, công năng bảo vệ bên ĩigoài không bền, phân bố tân dịch” thất thường, Phế khi nghịch lên; bệnh phần nhiều do ốm lâu bị hao tổn, tà khí đã lui mà chính khí tổn thương gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là suyễn khái đoản hơi, tiếng nói bợt bạt, tự ra mồ hôi hoặc mồ hôi trộm, miệng ráo họng khô, tinh thần mệt mỏi yếu sức, sắc mặt nhợt, nóng tĩlng cơn, gò má đỏ, chất lưỡi đỏ sáng ít rêu, mạch Tế Sác vô lực.

Chứng Phế khí âm đều hự thường gập trong các bệnh Khái thấu, Háo suyễn, Phế lao, Phế nuy.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Phế khí hư, chứng Phế âm hư, chứng Tâm khí âm đều hư.

IIế Phân tích

Chứng Phế khí âm đều hư gập trong nhiều loại tật bệnh và phần nhiều gặp ở thời kỳ cuối của bệnh, lúc này tà khí đã lui nhưng chính khí bị tổn thương, hoặc ốm lâu hao tổn, nhưng trong những tật bệnh khác nhau, về biểu hiện và phép chữa cũng không hoàn toàn giống nhau.

Như bệnh Khái thấu mà xuẫt hiện chứng Phe khí âm đều hư, thường biểu hiện có đặc điểm là Hư khái, như khái thấu đoản hơi, tinh thần mệt mỏi ,yếu sức, miệng khô họng ráo, lòng bàn tay chân nóng; Đây là do ho lâu không dứt, khí âm ở tạng Phế bất túc, mất chức năng thanh túq, hoặc cảm nhiễm ngoại tà, khi âm hao tổn gây nên; điều trị nên ích khí dưõng âm, thanh táo nhuận Phế, chọn dùng bài Thanh táo cứu Phế thang (Y môn phập luật). Nếu tà nhiệt chưa hết, khí âm hao thương, điều trị phải kiêm thanh nhiệt, ctí thể dùng Trúc diệp thạch cao thang (Thương hàn luận).

Trọng bệnh Háọ suy.ln cđ chứng Phế khí âm đều hư, lâm sàng thường bỉểu hiện Phế khí nghịch lên có các chững suyễn gấp đoản hợi, tinh thần mỏi mệt yếu sức, hoạt động bệnh càng tâng, chóng mặt, gQ má đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi trộm và khô miệng… đó là khí âm đều hư; điêu trị nên ích khí diíởng âm định suyễn, cho uống Sinh mạch tán (Nội nệoạị thương biện hoặc luận) gia vị.

Trong bệnh Phế lao gặp chứng Phế khí âm đều hư, thường có đặc điểm Hư tổn như Khái thấu thổ huyết, tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, triều nhiệt gò má đỏ, mật nhợt, tiếng ndị thều thào đoản hơi; mệt mỏi yếu sức; điều trị nên dưỡng âm ích khí, dùng bài Nguyệt hoa hoàn (Y học tâm ngộ) gia vị.

Chứng Phế khí âm- đều hư gập -trong bệnh Phế nuy thường xuất hiện những đậe điểm khí âm bất.túc, hư hỏa hun đốt ở trong, Phế mất sự thanh túc, có các chứng trạng ho mửa ra bọt rãi đặc dính và khó khạc, đoản hơi suyễn gấp, mệt mỏi yếu sức, miệng ráo họng khô, gày còm, lông tóc khô ròn v.v… điều trị nên ích khí dưỡng âm, thanh nhiệt nhuận Phế, uống bài Mạch môn đông thang ỉ Kim Quỉ yếu lược) gia vị. Tóm lại, chứng Phế khí âm đều hư trong những tật bệnh khác nỉìau thì biểu hiện lâm sàng có chỗ không giống nhau, có thể căn cứ vào đó mà phân biệt.

Chứng Phế khí âm đều hư gặp nhiều ở người ốm lâu hao tổn,

thể chất hư yếu hoặc nhiệt làm thương khí âm, tà rút lui và chính khí hư; sau mỗi khi mệt nhọc thỉ bệnh tăng và có đặc điểm là ho suyễn thở gấp, mỏi mệt yếu sức, gò má đỏ mật nhợt, triều nhiệt mồ hôi trộm, miệng ráo họng khô; Bệnh thường nặng ở mùa Hạ nđng nực,*»mùa Thu khồ ráo, vì hỏa nhiệt làm tổn thương Phế, hòa khác kim cho đến táo nhiệt làm hại Phế gây nên.

Phế là tạng non nớt, chủ về bì mao, khai khiếu lên mũi. Khí âm đều hư, chính khí bất túc thì dễ cảm nhiễm ngoại tà, thường kèm các chứng trạng ngoại cảm bĩểu chứng như sợ phong hàn, phát nhiệt đau đàu, họng khô đau, mũi tác khổ thở v.v… Trong quá trình diễn biến bệnh cơ, cũng thường kèm theo chứng trạng Tỳ khí hư nhược như trướng bụng ỉa chẩy, là vì phế hư mà con ản trộm khí của mẹ, ốm lâu liên lụy đến Tỳ mà thành t»ệnh. Khi điều trị, nên chiếu cố cả Tỳ VỊ, Tỳ Vị khỏe thì hâu thiên đày đủ, Tỳ khí phân tán tinh vi dồn lên Phế thì chứng Phế hư sẽ được hồi phục.

Trong bệnh Hư lao gập chứng Phế Khí âm đều hư, nếu ho ra huyết không dứt, khí âm càng tổn thương, có khả nãng phát sinh chứng Âm kiệt khí thoát, biểu hiện lâm sàng ho huyết không ngừng, hơi thở nhỏ yếu, gò má đỏ, phiền nhiệt, thậm chí hôn quyết, phải dùng ngay phép ích khí cố thoát, cho uống Sinh mạch tán ĩiều cao (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Phế khí hư với chứng Phế khí âm đều hư; về nguyên nhân và cơ chế bệnh của hai chứng này có mối liên hệ nhất định.

Chứng Phế khí âm đều hư thường do Phế khí hư yếu, bệnh dương hao tổn liên lụy đến âm mà phát triển nên.’ Phế khí hư thì tấu lý không bền, sự mở đóng sai chức năng, hoặc uống nhầm thuốc cay nóng phát tán, mò hôi ra quá nhiều, hoặc uống quá nhiều thuốc ôn nhiệt, nhiệt thịnh hóa hỏa, đều có thể tổn thương âm dịch, gây nên chứng Phế khí âm đều hư. Cụng có thể do Phế âm hư, bệnh âm tổn hại đến dương diễn biến nên, vì vậy đối với chứng Phế khí âm đều hư có chỗ khác nhau về bệnh nhân và bệnh cơ.

Phân tích thèo biểu hiện lâm sàng, chứng Phế khí hư là Phế khỉ hư yểú đơji thuần, không can thiệp gì tới âm dịch hao tổn, cho nên có-cáứ chứng trạng ho suyễn đoản hơi, thanh âm nhỏ khẽ, tự ra Ĩ11Ồ hôi, sợ gió, mặt nhợt mỏi mệt Chổng Phế khí âm đều hư thì biểu hiện cả Phế âm khuy tổn, có các chứng ho khan ít đờm hoặc trong đờm có lận máu, miệng khô họng ráo, tiếng nói khàn v.v…

-Chứng Phế âm hư với chứng Phế khí âm đều hư, mối liên hệ vè bệnh nhân và cơ chế bệnh của hai chứng này cũng cần phân biệt. Chứng Phế âm hư, bệnh biến dài ngày, khái suyễn không dứt, tiến tới hao thương Phế khí, bệnh âm tổn hại đến dương, có thể diễn biến thành chứng Phế khí âm đều hư. Từ biểu hiện lârr> sàng mà xét, chứng Phế khí âm đều hư có kiêm cả hai nhóir chứng trạng Phế khí hư và Phế âm hư, ngoài những biểu hiệr Phế âm khuy tổn như ho khan có đàm và huyết, mồ hôi trộm, gc má đỏ, nên có cả các chứng trạng Phế khí bất túc như suyễn khái đoản hơi, tiếng nói bợt bạt, sợ gió tự ra mồ hôi, sắc mặt nhợt, tinh thần mỏi mệt, không khó phân biệt với chứng đơn thuần là Phế âm hư.

Chứng Tâm khí âm đều hư với chứng Phế khí am đều hư: Tâm và Phế đều ở bộ vị Thượng tiêu, Tông khí bao trùm cả Tâm mạch làm lưu thông hô hấp. Tâm và Phế có mối liên hệ chặt chẽ về sinh lý và bệnh lý. Cả hai chứng đều là Khí âm đều hư, cho nên biểu hiện lâm sàng có chỗ khá giống nhau, biểu hiện cộng đông là các chứng trạng đoản hơi thở khẽ, mặt nhợt mỏi mệt, yếu sức, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng ráo họng khô, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác vô lực. Nhưng Phế khí âm đều hư lấy biểu hiện ở tạng Phế làm chủ yếu, có cả các chứng trạng về Phế nhứ suyễn gãp, khái thấu, khạc ra huyết, nhiều đờm. Còn Tâm khí âm đều hư, lấy tìlểu hiện ở tạng Tâm làm chủ yếu, hư tổn ở tạng Tâm, có các chứng trạng Tâm quý sợ sệt, mất ngủ hay mệ, chóng quên, mạch Kết Đại. Cản cứ vào đó mà chẩn đoán phân biệt.

Y văn’trích dẫi*

Nguyên khí hao tổn lâu ngày, đàm thấu Phế nny. raậch ở Thốn bộ thuộc Phế Hư Sác ít thần khí là chứng chữa. Cho uống Tử uyển thang chia làm 3 làn uống, A giao hoa vào nuđc thuốc, sau đó bỏ các vị Cát cánh, Tri mẫu, thẻbì Hoài sơn, Liên nhục, Hoàng kỳ theo tinh thàn bổ thổ để sinh kim, chứng khái nhiệt giảm dần (Phế nuy – Loại chứng trị tài).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*