Chứng Khí thoát ià tên gọi chung, chí chính khí của cơ thể suy yếu, nguyên khí xút kém, khí theo huyết thoát, âm dương muốn chia lìa, xuất hiện nhiều chứng trạng nguy cấp. Chứng này phần nhiều do ngoại cảm hoặc nội thương, óm lâu không khỏi, chính khí không thấng nổi tà khí, hoậc là bị ngoại thương, băng huyết, sau khi đé bị mất nhiều máu gây nên Khí thoát – Thường là bệnh tình biến hóa đột ngột xuất hiện chứng hậu iìgửỵ ngập, cho nên càn phải tích cực cấp cứu.
Biểu hiện chủ yếu của chứng Khí thoát là mồ hôi bỗng đưng vã ra đầm đìa, tinh thần ủy mị, mắt nhắm miệng há, sác mặt tậi xanh, đoản hơi không đủ để thở, đại tiểu tiện không tự chủ, chất lưỡi nhạt bệu, mạch Tế Vi hoặc Khâu Đại…
Chứng Khí thoát gặp rải rác trong các bệnh biến “hôn mê”, “chiến hãn”, “trúng phong”, “bàng lậu”, “sàn hậu huyết vâng”.
Nên phân biệt chứng Khí thoát với các “chứng vong âm”,- “chứng vong dương” và “chứng Khí quyết”.
Vì nguyên nhân bệnh, cơ chế gây bệnh của các loại tật bệnh phát triển đến chúng này khác nhau nên biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau.
– ví dụ chứng Khí thoát cd thể thấy trước khị xẩy ra hôn mê, phàn lốn do ngoại cảm nhiệt bệnh chưa khỏi, tà nhiệt lẩn quẩn hun đốt tân dịch gây nên; lúc này nếu làm dùng các thuốc hãn thuốc hạ, có thể thấy ra mồ hôi mà tả hạ, tinh thần mỏi mệt, mắt nhám đoản hơi, chân tay co giật, mạch khí hư yếu, lưỡi tía ít rêu, từng lúc muốn thoát; điều trị nên tăng dịch dẹp phong, ích khí cố thoát, cho uống bài Đại định phong châu (Ôn bệnh điều biện) gia giảm. Cũng có thể do cơ thể vốn Thận hư, nguyên khí bất túc, ốm lâu không khỏi gây nên, lúc nàỵ nếu lầm dùng thuốc hãn, thuốc hạ, ctí thể ra mồ hôi đầm đìa, tinh thần vật vã, sắc mật tráng bệch, mạch Vi Tế, chất lưỡi nhạt bệu; điều trị nên ích khí cố thoát, chỉ liêm cứu nghịch, cho uống Dộc sâm thang (Thập dược thàn thư) hoặc Sâm Phụ Long Mẫu thang (Nghiệm phương) gia giảm.
– Lại như vì “Chiến hãn” thái quá đến nỗi xuất hiện chúng Khí thoát phần nhiều do ôn tà trước sau vẫn lưu luyến ở khí phận, chưa phạm vào Doanh phận, lúc này chính khí còn thịnh mà tà khí chưa rút, muốn thông qua “chiến hãn* (rét run) dể đấy bệnh tà ra ngoài thì khỏi. Chiến hãn là chính khí và tà khí tranh dành nhau, toàn thân run rẩy mà ra mồ hôi, khiến cho bệnh tà theo mồ hôi mà thấu đạt ra ngoài, sau cơn chiến hãn, đương lúc ra mố hôi, chân tay lạnh, tinh thần tỉnh táo, nằm co, mạch Hư Hoản hòa, nếu điều trị và chăm sóc hợp lý, đợi chính khí hồi phục sẽ có hướng khỏi. Nếu ra mồ hôi chân tay lạnh, phiền táo không yên, mạch Cấp Tật, đđ là dấu hiệu chính khí hư thoát sau khi chiến hãn, càn tích cực cứu chữa, điều trị nên ích khí nuôi tân dịch để cứu thoát, cho uống ngay Dộc sâm thang hoặc Sinh mạch tán ữĩội ngoại thương biện hoặc luận) gia giảm,
– Chứng này còn gặp ở Thoát chứng của bệnh Trúng phong, sách Y kinh xồ hồi tập viết “Trúng phong không phải là phong tà từ ngoài tới, nó vốn là Khí bệnh”. Con người ở lứa tuổi tứ tuần,
r
sắp tới lúc khí suy, hoặc là do lo mừng cáu giận làm tổn thương khí, đa số bị bệnh nầy”. Đtí là vì nghỉ ngơi sai qui cách, nguyên khí thiếu thốn, Can Thận bất túc, hư phong nội động gây nên, có triệu chúng bỗng dưng ngã làn, sắc mặt tái xanh, mát nhắm miệng há, tay xòe chân lạnh, đại tiểu tiện tự vãi ra, miệng mắt méo xếch, bán thân bất toại, lưỡi mềm không nói <|ược, mạch Tế Vi, điều trị nên ích khí cứu thoát, cho uống Độc sâm thang hoặc Sâm Phụ thang (Phụ nhàn lương phương) gia giảm.
– Chứng Khí thoát lâm sàng thường gặp ở người dương khí vốn hư, Ốm lâu không khỏi, cao tuổi thể trạng yếu. Như các bệnh “Băng trung”, “xuất huyết nhiều sau khi đẻ “thường bị khí theo huyết thoát mà xuất hiện chứng này.
– Chứng “Huyết băng” đến nỗi khí thoát, phần nhiều tổn thương do án uống mệt nhọc, hoặc tư lự quá độ đến nỗi Tỳ VỊ khí hư, nguyên khí tổn thất lớn, khí không nhiếp huyết, Xung Nhâm không bền, có triệu chứng kinh nguyệt quá nhiều, sảc nhạt như nước, hai mắt tối xầm, chđng mặt, sác mặt trắng bệch, tinh thân bạc nhược, biếng ăn thiểu khí, mỏi lưng chân tay yếu, lưỡi nhạt bệu, mạch Tế Vi.
– Nếu “sau khi đẻ huyết mất quá nhiều “đến nỗi Khí thoát, phần nhiều do đẻ dầy, hoặc bào cung tổn thương, Xung Nhâm rỗng không, nguyên khí suy hao, mất quá nhiều huyết, khí theo huyết thoát, có chứng trạng sau khi đẻ huyết ra không dứt, ác lộ dàng dai, mồ hôi lạnh đầm đìa, tinh thần khốn đốn yếu sức, mắt trũng mặt nhợt, đoản hơi chân tay lạnh, lưỡi nhợt, mạch Hư Đại mà Khâu.
– Trong Nhãn khoa có trường hợp do Khí thoát mà bị mù. Quyết khí thiên sách Linh Khu viết: “Khí thoát thì mát khộng tỏ”, ở đây nêu rõ sự hư thoát do tinh khí của nãm tạng, bởi vì tinh khí của năm Tạng bị suy kiệt, không còn gì để làm tươi tốt lên mắt gây nên, sẽ xuất hiện hai mát khô rít, hai mất khỗng tỏ, hoặc
là đống tử rán to.
– Trong Nhi khoa, vì trẻ em phú bấm bất túc, nguyên khí hao tổn, thể trạng tri dương rất dễ bị ngoại tà xâm phạm mà sốt cao đột ngột, ra mồ hối, cánh mũi phập phồng thở gấp, hoặc hạ lỵ không* dứt, tinh thần ủy mị, đoản hơi không tiếp nối cũng là biểu hiện chứng Khí thoát.
Cần phải nêu rõ chứng Khí thoát cd quan hệ chặt chẽ với ba tạng Phế, Tỳ, Thận. Lâm sàng phần nhiều do Phế Tỳ khí hư, đột nhiên ra mồ hối đầm đìa mà gầy nên chứng này; Cũng có khi do Tỳ Thận khí hư, bỗng dưng hạ lợi không đứỉ mà thành chứng này. Cho nên chứng Khí thoát có thể do khí hư bất túc phát triển nên. Ra mồ hôi, có thể do khí hư không bền, tấu lý thưa hở gây nên. Khí thuộc dương, dương khí không bảo vệ bên ngoài mà tiết ra ngoài cũng gây nên ra mồ hôi, cho nên ra mồ hôi đầm địa thì tổn hại dựơng khí; Khí thoát cũng có thể dẫn đến vong dương, đđ là tình huống thứ nhất. Mò hôi là sự biến hóa của tâm dịch, khí hư không bền, ra mồ hôi không dứt, tân dịch tỉết ra ngoài sẽ làm tân tổn thương, dịch mất đi, nói lên Khí thoát cũng có thể dẫn đến vong âm, đó là tình huống thứ hai. Dương nhiên, hạ lợi vô độ cũng có thể hao khí và thoát dịch, xuất hiện tình huống chuyển qui hai loậi nói trên. Lâm sàng nên coi trọng việc cấp cứu chứng Khí thoát, đợi sau khi nguyên khí được hối phục, nên nám vững nguyên nhân tạo thành chứng bệnh và chứng trạng xuát hiện trong lâm sàng, hoặc là di chứng để tiến hành điều trị đối phđ lại, nếu không, chứng Khí thoát sẽ lại xuất hiện làn nữa, bệnh tỉnh càng nguy hiểm thêm.
– Chứng Vong ấm với chứng Khí thoát, cái hai đều là chứng hậu nguy cấp, hơn nữa đều biểu hiện mồ hôi ra đầm đìa.
r
Chứng Vong âm phàn nhiều do tà nhiệt hãm ở trong, chán âm hun đốt hoặc vì ra quá nhiều mồ hôi, hạ lợi không ngừng tạo thành âm dị. h hao kiệt, âm khổng chế dương, âm dương chia lìa, cđ chứng trạng thần trí hôn mê, tinh thần khốn đốn, ra mồ hôi như dầu. hỏa bốc lên gò má đỏ, họng khô, lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi bđc mảng, mạch Hư Tế đới Sác. Chứng Khí thoát phần nhiều do mồ hôi ra đầm đỉa khiến tân dịch hao tổn, khí hư mà thoát, nhưng nó chỉ là tinh thần ủy mị, chưa xuất hiện hôn mê. Cho nên chứng Khí thoát khả năng là tiền đề của chứng Vong âm – Nên phân biệt háĩ chứng ở chỗ nầy.
– Chứng Vong dương với chứng Khí thoát, cả hai đều có chứng hậu nguy cấp và đều biểu hiện ra mồ hồi đằm đìa. Chứng Vong dương phần nhiều do chân dương suy vi, hoặc ra mồ hôi quá nhiềú, ỉa chẩy không ngừng tạo nên tình huống dương khí suy kiệt, dương không đi với âm, âm dương chia lìa, cđ chứng trạng hôn tnê bất tinh, ra mồ hôi, da lạnh, mát nhắm miệng há, tay xoè chân quyết lạnh, đại, tiểu tiện tự sdn ra, mũi thở nhẹ, chất lưỡi nhạt, mạch Vi Tế muốn tuyệt. Còn chứng Khí thoát thì do vã mồ hồi đằm đìa khiến cho khí hư muốn thoát, nhưng chưa xuất hiện chứng trạng hôn mê, mới chi khốn đổn tinh thần’mà thôi, vỉ vậy, chứng Khí thoát xem như chứng hậu tiền đề của chứng Vong dương. Dây là điều phân biệt của hai chứng.
Chứng Khí quyết vối chứng Khí thoát, cả hai đều là chứng hậu nguy cấp, hơn nữa cđ liên quan tới biến hđa bệnh lý của Khí. Chứng Khí quyết phần nhiều do tổn thương thất tình, tức giận sợ hãi, Can uất không điều đạt; Giận thì khí đưa lên nghẽn tắc vùng ngực, khí cơ bị nghịch loạn, quấy rổi thàn minh gây nên, có chứng trạng hôn mẽ ngã lăn đột ngột, bất tỉnh nhân sự, chân tay lạnh và co giật. Chứng Khí thoát thời do nguyên khí bất túc, khí không cố nhiếp cho nên xuất hiện chứng trạng ra mồ hôi đầm
đìa, tinh thần khốn đổn. VI vậy, loại trên là thuộc Thực chứng; Loại sau là thuộc Hư chứng. Chúng khác nhau từ nguyên nhân bệnh, ca chế bệnh và chứng trạng… là điều chấn đoán phân biệt không mây khó khản.
– Âm Dương đều thoát thì chốt đột ngột không biết người (Thông thiên thiên – Linh Khu)
– Chứng Thoát dương, xem như thấy quỷ ở bên trong (Nạn thứ 20 – Nạn Kinh)
– Mạch Trầm Tiểu Trì gọi là Thoát khí, người bệnh đi nhanh thì thở hổn hển, chân tay nghịch lạnh, đày bụng, nặng hơn thì đại tiện lỏng, ăn không tiêu (Huyết tý hu lau bệnh mạch chứng trị – Kim Quỹ yếu lược).
– Sau khi đẻ. bào thai đã ra. khi huyết đều mất mát, bổng nhiên hoa mắt tối xâm, hôn mê cấm khẩu, bất tinh nhân sự. Cổ nhân phần nhiều cho là ác lộ nhân chỗ hư yếu mà xông lên gây nên Huyết vậng, không biết chúng ctí hai loại: Một là Huyết vâng; Hai là Khí thoát. Nếu lấy Khí thoát coi là Huyết vậng mà dùng các bài thuốc cay thơm trục huyết hóa đàm thì chết lập tức, không thể không cẩn thận (Phụ nhăn quy – Cảnh Nhạc toàn thự)
– Từ Linh Thai nhận định: Có tên là Thoát chỉ là dương khí vượt ra đột ngột, âm dương chia lìa, ra mồ bôi như dầu, sáu bộ mạch sáp dứt, là chứng trạng cấp bách nhất thời, mới gọi là Thoát (Thoát – Lăm chứng chỉ nam y án)
Để lại một phản hồi