Khái niệm
Huyết thoát còn gọi là Thoát huyết, do bị mất huyết đột ngột lượng nhiều, hoặc xuất huyết kéo dài, lượng quá nhiều, là chứng hậu âm huyết suy kém hoặc dương khí suy giảm nghiêm trọng.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sác mặt tráng bệch, héo hon không tươi, chóng mặt hoa mất, hồi hộp sợ sệt, thở nhẹ’ mà ngán; chân tay mát lạnh, chất lưỡi trấng nhạt, mạch khỡng Hư hoặc Khâu, hoậc Vi Tế muốn tuyệt.
Chứng Huyết thoát thường gặp trúng các bệnh nlất huyết như “Nục huyết”, “Ẩú huyết”, “Tiện huyết”, “Băng lậu”.
Càn chẩn đoán phân biệt với “chứng Huyết hư”.’
Phân tích
Huyết thoát là một chứng nặng hay gặp trong lâm sàng, chủ yếu thấy ở các bệnh cđ tính xuát huyết như Thổ huyết, Nục huyết, Tiện huyết. Biểu hiện lâm sàng có độc điểm là đột ngột bị mát huyết lượng lớn, hoặc mạn tính xuất huyết lâu ngầy khổng khỏi, sác mật trắng bệch héo hon không tươi, chóng mặt hoa mát, tay chân mát lạnh, thậm chí hôn quyết bất tỉnh nhân sựi Huyết là mẹ của khí. Khí lầ soái của huyết, cho nên mất huyết lượng nhiều tất nhiên làm cho khí mất chỗ dựa, biến thành tình trạng khí theo huyết thoát. Huyết mới không sinh ra bù đáp kịp, nguyên khí cần phải củng cố ngay, nên cho uống ngay Dương qui bổ huyết thang (Nội ngoại thương biện hoặc luận) để bổ khí dưỡng huyết. Bổ khí phải nhiều hdn dưỡng huyết là vận dụng theo ý nghĩa dương sinh âm trưởng. Nếu mồ bôi ra đầm đìa, chân tay quyệt nghịch, mạch Tế muốn tuyệt, là chứng £ậu vong dương, càn cho uống ngay Sâm Phụ thang (Phụ nhân lương phương) hoặc Tứ nghịch thang (Thương hàn luận) để hồi dương cứu nghịch. Đợi cho huyết ngừng không ra nữa, dương khí đã hồi phục bấy giờ mới điều trị theo nguyên nhân. Nếu như huyết nhiệt, cho uống Tê giác địa hoàng tháng (Thiên kim phương) để thanh nhiệt lửơng huyết. Nếu do lo nghỉ tức giận, Can hỏa bốc mạnh mà Can không chứa được huyết, nên dùng Đan chi Tiêu giao tán (Phụ nhân lương phương) để sơ Can, thanh nhiệt, lương huyết. Nếu vì tư lự hại Tỳ, làm cho Tâm Tỳ đều hư, Tỳ không qpản lý được huyết, nên uểng Quy tỳ thang (Té sinh phương) để ích khí dưỡng huyết.
Trong bệnh Hư lao xuất hiện chứng Huyết thoát phần nhiều là ở giai đoạn cụốỉ của bệnh, ỉâm sàng ,cđ các chúng trạng gày còm yếu ớt cực độ, sắc mặt tráng xanh, ủ dột không tươi, chđng mặt hoa mát, mỏi mệt sợ lạnh, hồi hộp sợ sệt, mất ngủ hay mê, chất lưỡi nhạt, mạch Huyền Tế hoặc Tế Sắc v.v. đây là do tiên thiên phú bắm bất túc, hơặc ăn uống không điều độ, mệt nhọc quá sức làm tổn thương Tỳ Vị, Tỳ mất sự kiện vậii, hóa sinh bất tóc, nguồn sinh hóa khí huyết thiếu thốn; hoặc là tỉnh chí không toại nguyện, Can khí uất kết, Can mất sự sơ tiết đến nj5i không chứa được huyết; Tỳ khí hư, Tỳ không nhiếp huyết, đến nỗi vong huyết, thất huyết lâu ngày không khỏi; Hoặc vì sắc dục vô độ hao thương Thận tinh, tinh thiếu huyết suy, tích hư thành tổn gây nên; Diều trị nên dùng các phép dưỡng huyết, bổ huyết, ích khí, cho uống bài Nhân sâm dưỡng vinh thang (Thái bình huệ dân hòa té cực phương). Phụ nữ bị chứng Huyết thoốt, thường cđ đặc điểm là báng lậu hoậc sau khi đẻ bị huyết vậng, chứng hâu cd khác nhau tùy thuộc vào sức khỏe của tìíng người, nên điều trị theo phương hướng “Nhân nhân chế nghi”.
“Huyết tức là thần khi”, con ngựời lấy khí huyết làm gốc”, đê’ nuôi dưỡng thân mình, không gì quý bàng huyết”, chứng huyết thoát là bởi roất quá nhiêu huyết, khí theo huyết thoát, thường xuất hiện chứng hậu vong huyết, đột ngột ngã lăn, chân tay giá lạnh, sắc mặt trẳng xanh, vã mồ hôi đầm đìa, mạch Vỉ muốn tuyệt v.v. nên cấp cứu cái phần Dương sáp hết, còn nói là cứu được một phàn dương khí, còn chút hi vọng sống mỏng manh.
Chẩn đoán phân biệt.
Chứng Huyết hư với ‘chứng Huyết thoát, cả hai đều thuộc phạm vi huyết hư. Nhưng chứng Huyết hư nguyên nhân phần nhiều do Tỳ mất kiện vận, hóa nguyên bất túc, hoặc ốm lâu doanh huyết bị hao từ bên trong, hoặc do các loại xuất huyết mạn tính làm cho âm huyết toàn thân thiếu thốn, Tạng Phủ không được nhu dưỡng, cho nên có chứng trạng sác mặt tráng nhợt hoặc vàng bủng, váng đầu hoa mát, môi miệng và móng chân tay nhợt, chất lưỡi nhạt, mạch Tế v.v. Chứng Huyết thoát có khả năng do huyết hư phát triển nên hoặc do mất huyết đột ngột lượng nhiều hoặc xuất huyết kéo dài gây nên. Hai chứng tuy thuộc phạm vi huyết hư, nhưng có nặng, nhẹ, hoãn, cấp khác nhau. Chứng huyết hư phần nhiều thuộc loại ốm lâu cho dù xuất huyết cũng chỉ xuất huyết lượn? ít mang tính chất mạn tính, tỉnh trạng bệnh nhẹ và từ tỳ’ Chứng huýết thoát phàn nhiều do đột ngột bị xuất huyết số lượng lỏn, tình trạng bệnh nặng và khẩn cấp, cho nên thường có các chứng trạng vậng quyết, trên trán ra mò hôi như giọt dầu, hơi thở thấp nhỏ, chân tay quyết lạnh, mạch Vi muốn tuyệt v.v đó là những điểm khác nhau với chứng huyết hư rất rõ ràng.
Trích dẫn y văn
Sáu bộ mạch Huyền Tế mà Sắc, sác . mặt trắng bệch khô khan đó là thoát huyết đại hư mà kiêm hàn, điều trị nên dùng thuốc cam ôn bổ huyết (Thổ huyết – Chứng tri vậng bổ)
Để lại một phản hồi