1. Khái niệm
U nang buồng trứng là loại khối u thường gặp nhất ở cơ quan sinh dục nữ, chiếm tỉ lệ 3,6% các bệnh phụ khoa.
U nang buồng trứng là những nang hình thành ở buồng trứng, có vỏ bọc ngoài, bên trong chứa chất dịch. U nang gặp ở mọi lứa tuổi.
Có 5 nguyên nhân phổ biến dẫn đến u nang buồng trứng đã được công nhận. Đó là:
– Do các nang trứng phát triển không đầy đủ, không rụng và không hấp thu được các chất lỏng trong buồng trứng.
– Do mạch máu của các vùng lạc nội mạc tử cung trong buồng chứng vỡ gây chảy máu tạo thành nang.
– Do lượng hocmone Chorionic gonadotropin dư thừa dẫn tới hình thành u nang lutein.
– Do sự tăng tiết quá mức của luteinzing hormone (LH).
– Do thể vàng phát triển dẫn tới dẫn tới các u hoàng thể.
2. Triệu chứng
2.1. Biểu hiện lâm sàng
– Rối loạn kinh nguyệt.
– Cảm giác khó chịu tại vùng hố chậu.
– Giảm chức năng sinh sản
– Đôi khi gây suy nhược cơ thể hoặc có thể gây tử vong do các biến chứng tắc ruột hoặc bí tiểu hoặc các biến chứng như xoắn, vỡ u nang.
– Các khối u buồng trứng cơ năng như u tế bào hạt, hay u vỏ gây dậy thì sớm do tiết ra lượng Oestrogen đủ làm phát triển vú, xuất hiện lông mu, cơ quan sinh dục phát triển mặc dù thiếu sự rụng trứng. Do đó ở các em gái dậy thì sớm nếu sờ thấy buồng trứng to lên cần phải xem xét cẩn thận các khối u buồng trứng bất thường.
2.2. Cận lâm sàng
– Siêu âm: siêu âm là phương tiện chẩn đoán chính. Siêu âm qua bụng hoặc tốt hơn là làm siêu âm qua âm đạo.
– Chụp MRI hoặc CT: CT scan chẩn đoán tình trạng lan rộng của u nang. MRI có thể cho ta thấy rõ hơn kết quả của siêu âm.
– Chọc hút tế bào: giúp chẩn đoán u lành và ác tính.
– Xét nghiêm huyết thanh CA-125: Xét nghiệm máu tìm kháng nguyên CA-125 có liên quan đến ung thư buồng trứng (CA: Cancer Antigen). Xét nghiệm này dùng trong đánh giá ung thư biểu mô buồng trứng và giúp xác định khối u là lành tính hay ác tính. Tuy nhiên một số trường hợp các thể lành tính như u xơ tử cung hoặc lạc nội mạc tử cung cũng cho kết quả dương tính với CA-125. Vì thế xét nghiệm không có giá trị chẩn đoán quyết định ung thư buồng trứng.
– Nồng độ hormon: Xét nghiệm máu để kiểm tra nồng độ LH, FSH, estradiol, và testosterone có thể giúp ta phát hiện vấn đề liên quan đến nồng độ các hormone này.
– Thử thai: Điều tri u nang buồng trứng ở một bệnh nhân có thai và không có thai là khác nhau hoàn toàn. Trường hợp thai ngoài tử cung có thể bị bỏ sót vì triệu chứng khá giống với u nang buồng trứng.
– Chọc dò túi cùng Douglas: Phương pháp này để lấy mẫu dịch từ vùng chậu bằng một cây kim đâm xuyên qua thành âm đạo phía sau cổ tử cung.
3. Phân loại và điều trị
Có hai loại u nang buồng trứng: cơ năng và thực thể.
3.1. Nang cơ năng
U nang buồng trứng cơ năng có nguồn gốc từ các nang noãn, thường do sự rối loạn sinh lý trong quá trình phát triển. Chúng thường tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi tự biến mất.
U nang là những nang nhỏ chứa dịch, có thể gặp ở bất kỳ tuổi nào nhưng hay gặp ở tuổi dậy thì và tiền mãn kinh, thường có những đặc điểm chung sau:
– Khối u chỉ hình thành và phát triển trên một buồng trứng.
– Tự teo và hoặc vỡ đi sau một vài vòng kinh liên tục, thường không quá 60 ngày.
– Kích thước của u nang không vượt quá 7 cm.
– Cấu tạo khối u là một lớp dịch nhầy đặc dính, trong và không màu (trừ trường hợp bị xuất huyết).
Lâm sàng khó phát hiện vì kích thước nhỏ, nhưng nếu khối u có kích thước từ 5 – 6 cm trở lên thì có thể sờ thấy, thường gặp ở tuổi mãn kinh, do đó bệnh nhân cần phải được theo dõi cẩn thận. Nang thường biến mất sau vài vòng kinh, nếu nang tồn tại trên 60 ngày với kinh nguyệt bình thường thì phải coi chừng là u thực thể.
3.1.1. Nang noãn
Bình thường trứng phát triển trong một túi gọi là noãn. Túi này ở bên trong buồng trứng. Trong đa số trường hợp, nang noãn này sẽ vỡ ra và giải phóng trứng (rụng trứng). Nhưng nếu noãn không vỡ, dịch bên trong noãn có thể hình thành u nang trong buồng trứng. Kích thước nang thường từ 3-8 cm hoặc lớn hơn.
Hình 2. Nang noãn bên trái.
– Triệu chứng: Không rõ ràng, đôi khi biểu hiện ra máu hoặc xoắn nang hoặc gây ra chu kỳ kinh dài, hoặc ngắn. Khi nang to gây đau vùng tiểu khung, đau khi giao hợp.
– Chẩn đoán phân biệt với: viêm vòi trứng, lạc nội mạc tử cung, nang hoàng thể, khối u khác.
– Xử trí: Thường nang biến mất tự nhiên trong khoảng 60 ngày, không cần điều trị. Dùng thuốc tránh thai tạo vòng kinh nhân tạo.
Nếu nang tồn tại trên 60 ngày với chu kỳ kinh đều thì phải xem xét có khả năng không phải nang cơ năng. Soi ổ bụng, chọc hút nang dưới hướng dẫn của siêu âm cũng còn là vấn đề đang bàn cãi vì nếu u là thực thể thì tế bào khối u có thể rơi vào khoang bụng làm lan tràn khối u.
Hình 3. Siêu âm thấy u nang buồng trứng ở một bệnh nhân nữ trẻ, đau ở vùng bụng dưới. Siêu âm vùng chậu cho thấy hình ảnh 2 chiều là dạng nang buồng trứng mà không thấy chồi sùi bên trong hay mô hoại tử. Những đặc điểm này điển hình cho nang noãn bào buồng trứng. Nang này là nang chức năng, những nang này phát triển to lên nhưng không phóng noãn (không có chu kỳ rụng trứng). Nang này thường là đơn độc.
3.1.2. Nang hoàng thể
Các túi noãn thường sẽ tự tan sau khi giải phóng trứng. Nhưng nếu các túi này không tan và miệng của chúng mở ra, dịch có thể sẽ phát triển thêm bên trong túi và tích tụ lại gây ra u nang thể vàng. Có hai loại nang hoàng thể: nang tế bào hạt và nang tế bào vỏ.
– Nang hoàng thể tế bào hạt:
Là nang cơ năng, gặp sau phóng noãn, các tế bào hạt trở nên hoàng thể hoá.
Triệu chứng: Đau vùng chậu, gây vô kinh hoặc muộn kinh, dễ nhầm với chửa ngoài tử cung, có thể xoắn nang, vỡ nang gây chảy máu phải soi ổ bụng hoặc mở bụng để cầm máu.
– Nang hoàng thể vỏ:
Loại nang này không to, hay gặp ở hai bên buồng trứng, dịch trong nang có màu vàng rơm. Loại nang này thường gặp trong buồng trứng đa nang, chửa trứng, chorio hoặc quá mẫn trong kích thích phóng noãn.
– Xử trí: Nang thường biến mất sau điều trị như nạo trứng, điều trị chorio.
3.1.3. Buồng trứng đa nang (Stein-Leventhal syndrom)
Gặp ở hai bên buồng trứng, gây vô kinh, vô sinh, thiểu kinh, 50% có mọc râu và béo phì. Buồng trứng đa nang hay gặp ở những trường hợp rối loạn có liên quan đến vùng dưới đồi. Biểu hiện bằng vỏ buồng trứng bị sừng hóa, bề mặt trắng ngà nên gọi là hình con sò, nhiều nang nhỏ nằm dưới lớp vỏ dày.
Hình 4. Buồng trứng đa nang.
– Chẩn đoán: Dựa vào khai thác tiền sử, khám thực thể, xét nghiệm LH tăng cao, theo dõi nhiệt độ cơ thể không có phóng noãn. Chẩn đoán xác định qua siêu âm và soi ổ bụng.
– Điều trị: Chlomifen 50-100 mg trong 5-7 ngày kết hợp Pregnyl 5000 đơn vị gây phóng noãn, đôi khi phải cắt góc buồng trứng.
Hình 5. Buồng trứng đa nang. Phụ nữ này ở tuổi trung niên có tiền sử chu kỳ kinh không đều. Siêu âm bụng cho thấy (hình trên bên trái), buồng trứng to ở cả 2 bên. Tuy nhiên, không có nang xác định. Tử cung kích thước bình thường. Các hình ảnh siêu âm qua âm đạo cho thấy chi tiết của buồng trứng bị ảnh hưởng đáng ngac nhiên. Các phát hiện trên siêu âm bao gồm:
a) Giãn rộng buồng trứng, thể tích của buồng trứng trong khoảng 12-15 cc. Điều này là do sự gia tăng mô đệm.
b) Các mô đệm buồng trứng (nhu mô) có sự tăng âm.
c) Nhiều nang có kích thước nhỏ được nhìn thấy dọc theo mép của buồng trứng.
d) Các nang buồng trứng thấp hơn 10mm (mỗi nang kích thước trung bình là 4 đến 5 mm).
e) Có hơn 10 nang cho mỗi buồng trứng (ở đây chúng ta có thể đếm được ít nhất 12 đến 15 nang cho mỗi buồng trứng). Việc bố trí các nang dọc theo mép của buồng trứng được gọi là một dấu hiệu chuỗi vòng cổ và chẩn đoán của bệnh PCOD hay buồng trứng đa nang.
Thông thường, kết quả lâm sàng liên quan với PCOD bao gồm rậm lông, béo phì, kinh nguyệt không đều và vô sinh. Những triệu chứng này liên quan đến buồng trứng đa nang PCOS (hội chứng đa nang buồng trứng).
3.2. U nang buồng trứng thực thể
3.2.1. U nang biểu mô buồng trứng
Chiếm 60-80% tất cả các loại u nang gồm: u nang nước, u nang nhày, lạc nội mạc tử cung, u tế bào sáng, u Brenner, u đệm buồng trứng.
– U nang nước:
Vỏ mỏng, cuống dài, chứa dịch màu trong, to, đôi khi choán hết ổ bụng, là khối u lành tính, có thể có nhú ở mặt trong hoặc mặt ngoài vỏ nang. Nếu có nhú dễ ác tính.
Triệu chứng: Gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng hay được phát hiện ở tuổi 20-30. Khám tiểu khung thấy khối u.
Xử trí: Mổ cắt bỏ nang.
– U nang nhầy:
Chiếm khoảng 10-20% các loại u biểu mô, 85% là lành tính.
Cấu tạo vỏ nang gồm 2 lớp: tổ chức xơ và biểu mô trụ. U nang gồm nhiều thuỳ, bên trong chứa dịch vàng, kích thước to nhất trong các u buồng trứng.
Xử trí: Mổ cắt bỏ u nang.
– U lạc nội mạc tử cung:
Thường phát hiện được qua soi ổ bụng hoặc trong phẫu thuật, 10-25% do tuyến nội mạc tử cung phát triển ra ngoài tử cung, hay gặp ở buồng trứng. Lạc nội mạc tử cung bị xuất huyết tạo thành nang.
Cấu tạo vỏ nang mỏng, trong, chứa dịch màu chocolate, khối u thường dính, dễ vỡ khi bóc tách.
Chẩn đoán: Biểu hiện các triệu chứng đau hạ vị, đau bụng khi hành kinh, đau khi giao hợp. Khám tiểu khung phát hiện khối u.
Hình 6. Bệnh nhân có một u nang đặc cùng tồn tại với một nang xuất huyết trong cùng buồng trứng (phải). Khối u ở nửa trên bên trái là hình ảnh một u nang xuất huyết. Lưu ý các sợi fibrin nhỏ trong các u này cho thấy sự hình thành cục máu đông. Khối u nửa trên phải có hình dạng đồng nhất, và phản âm tốt. Đây là hình ảnh điển hình của u nội mạc tử cung.
Hình 7. Trường hợp 1: Siêu âm hình ảnh của u lạc nội mạc dạng nang buồn trứng
Hình 8. Trường hợp 2: Siêu âm hình ảnh của u lạc nội mạc dạng nang buồn trứng
Hình 9. Trường hợp 3: Siêu âm hình ảnh của u nội mạc bởi Joe Antony, MD, Ấn Độ.
Trường hợp 4. Hình ảnh siêu âm của u nội mạc tử cung.
U lạc nôi mạc tử cung ở buồng trứng là do chảy máu từ các mô nội mạc tử cung lạc chỗ trong buồng trứng tạo thành nang. Một số nhà nghiên cứu tin rằng tế bào buồng trứng bình thường có thể chịu được những thay đổi trong xuất huyết buồng trứng. Tất cả các hình ảnh siêu âm trên (4 trường hợp khác nhau) cho thấy tổn thương lớn hay nhỏ trong nang buồng trứng. Các nang cho thấy khuếch tán, phản âm kém trên hình ảnh Doppler. Chẩn đoán phân biệt chính trong các trường hợp này là xuất huyết nang dạng sợi được thấy bên trong u.
Cũng lưu ý rằng nội mạc tử cung đồng nhất về sự phản âm. U lạc nội mạc dạng nang có kích thước khác nhau và gây ra đau đáng kể, đặc biệt là trong chu kỳ kinh nguyệt. Thông thường, U lạc nội mạc dạng nang cho thấy sự vắng mặt của chồi sùi hoặc vôi hóa và có thể bị nhầm lẫn với u dạng đặc. MRI có thể hữu ích trong việc chẩn đoán xác định bệnh.
– Khối u tế bào sáng (Mesonephroid tumour):
Giống u lạc nội mạc tử cung
Chỉ chẩn đoán xác định được bằng giải phẫu bệnh.
– Khối u Brenner:
Khám tiểu khung: phát hiện khối u, mật độ khối u có chỗ mềm chỗ cứng, cắt ra có màu vàng hoặc trắng, 80% là lành tính.
– U nang bì (Dermoid cyst):
Chiếm tỷ lệ 25% khối u buồng trứng. Hay gặp là teratom, khối u chứa tổ chức phát sinh từ tế bào mầm. Trong nang chứa các tổ chức như răng, tóc, bã đậu. U nang bì thường lành tính nhưng cũng có thể trở thành ác tính. Hay được phát hiện ở lứa tuổi 20-30 tuổi. Khoảng 20% phát triển ở cả hai bên buồng trứng.
Hình 11. Những hình ảnh siêu âm cho thấy u buồng trứng phức tạp có chứa các thành phần đặc và nang. Buồng trứng phải cho thấy một khối u nang, đặc, tăng âm, “u nang bì”. Đây là một nang đặc có chứa các mô mỡ và mô khác nhau bao gồm cả tóc. Nhìn thấy bóng lưng phía sau. Buồng trứng bên trái cho thấy một u bì và, ngoài ra, một “u quái” cũng được nhìn thấy, một sự tăng âm bất thường trong u
+ Triệu chứng: Thường không có triệu chứng. Phát hiện khi mổ lấy thai hoặc chụp X-quang thấy răng trong khối u.
+ Điều trị: Phẫu thuật là phương pháp tối ưu. Nếu nang nhỏ nên cắt bỏ phần u, để lại phần buồng trứng lành.
4. Tiến triển và biến chứng.
4.1. Các Biến chứng hay gặp
– Xoắn nang: Hay gặp ở khối u có kích thước nhỏ, cuống dài, không dính. Xoắn nang có thể xảy ra khi đang mang thai, hoặc trong khi chuyển dạ. Triệu chứng: đau đột ngột, dữ dội, vã mồ hôi, choáng, nôn. Xử trí: Mổ cấp cứu.
– Vỡ nang: Xảy ra sau khi nang bị xoắn.
– Nhiễm khuẩn nang: Xảy ra khi xoắn nang. Nhiễm khuẩn làm nang to lên, dính vào các tạng xung quanh. Biểu hiện lâm sàng giống viêm nội mạc tử cung.
– Chèn ép tiểu khung: Khối u chèn ép vào trực tràng, bàng quang. Nang to, tiến triển trong nhiều năm choán hết ổ bụng, chèn ép tĩnh mạch chủ dưới gây phù, tuần hoàn bàng hệ, cổ chướng.
– Chảy máu trong nang: Do một mạch máu trong nang bị vỡ hoặc xoắn nang.
Hình 12. Bệnh nhân nữ trẻ chưa sinh lần nào được siêu âm sau kích thích rụng trứng. Buồng trứng bên phải cho thấy một u nang xuất huyết điển hình từ hoàng thể. Những hình ảnh siêu âm đầu tiên (hình trên bên trái) là cho thấy các sợi fibrin nhỏ trong khối u nang ở buồng trứng bên phải. Siêu âm đường âm đạo và siêu âm Doppler màu giúp xác định những tổn thương này. Tử cung còn thấy sự thay đổi chế tiết điển hình nội mạc tử cung trong giai đoạn rụng trứng (hình dưới phải).
– Có thai kèm u nang buồng trứng: Được chẩn đoán qua khám thai định kỳ hoặc qua siêu âm. Có thể gặp bất kỳ loại nang nào, nhưng hay gặp là nang hoàng thể hay u nang bì, ít khi gặp nang ác tính.
– Các biến chứng khác: U nang thực thể có thể gây vô sinh, đẻ non, sảy thai, khó đẻ và có nguy cơ chuyển thành ung thư.
4.2. Lâm sàng và điều trị một số biến chứng
4.2.1. U nang buồng trứng xuất huyết
Trong số các loại biến chứng của u nang buồng trứng thì u nang buồng trứng xuất huyết là phổ biến nhất. Một u nang bị xuất huyết khi một trong các mạch máu nhỏ nằm trên thành của khối u mới hình thành bị vỡ vì một số lý do. Máu từ mạch máu tràn ra nang và làm nang bắt đầu to lên với một tốc độ vừa phải. Nang buồng trứng là một túi có thành mỏng bên trong chứa đầy dịch. Khi u nang buồng trứng chảy máu thì từ túi chứa đầy dịch lỏng gây nên nang buồng trứng xuất huyết.
Tuy u nang buồng trứng xuất huyết có thể gây nên thương tổn lớn nhưng không phải lúc nào cũng cần được phẫu thuật, Trong nhiều trường hợp, u nang sẽ phát triển trong một khoảng thời gian, sau đó bắt đầu co lại và cuối cùng tự biến mất. Tuy nhiên, theo dõi u nang buồng trứng xuất huyết là rất cần thiết để đảm bảo rằng nó tự giới hạn được và không gây nguy hiểm cho buồng trứng.
– Biểu hiện lâm sàng:
+ Đau bụng vùng hạ vị hoặc vùng chậu, có thể bắt đầu và hết đau hoặc có thể trở nên nghiêm trọng, bất ngờ và dữ dội.
+ Chu kỳ kinh nguyệt rối loạn.
+ Cảm thấy áp lực tăng ở vùng bụng dưới hoặc vùng chậu hoặc cả bụng.
+ Đau vùng chậu thời gian dài trong suốt thời kỳ kinh nguyệt, cũng có thể đau ở vùng lưng thấp.
+ Vùng chậu đau sau khi tập thể dục gắng sức hoặc quan hệ tình dục.
+ Đau hoặc có bất thường ở đường tiết niệu hoặc nhu động ruột.
+ Buồn nôn và ói mửa.
+ Đau âm đạo hoặc rỉ máu từ âm đạo.
+ Vô sinh.
– Xử trí:
U nang buồng trứng xuất huyết khác với các loại u nang khác vì nó có thể làm cho bệnh nhân khó chịu và đau bụng dữ dội. Bệnh nhân thường đau bụng một bên nhưng có xu hướng lây lan nếu không được điều trị thích hợp.
Nếu mức độ khó chịu không quá nghiêm trọng, thuốc giảm đau đơn giản có thể giảm đau tạm thời, nhưng quan trọng là phải chữa trị tận gốc nguyên nhân của bệnh. Lựa chọn thay thế khác như chườm nước đá có thể làm giảm đau, dùng một số loại thảo dược, vitamin, và theo dõi trong một khoảng thời gian.
Trường hợp chảy máu nhiều, nang phát triển to nhanh, bệnh nhân đau nhiều có thể chỉ định phẫu thuật cắt u nang.
4.2. Vỡ nang buồng trứng
Trong trường hợp một u nang buồng trứng không được phát hiện sớm, nó có thể phát triển to và vỡ hoặc vỡ vì một lý do khác như chấn thương. Vỡ nang là biến chứng ít gặp, thường xảy ra với trường hợp u nang nước do có vỏ mỏng, sẽ gây đau và chảy máu dữ dội. Một u nang buồng trứng vỡ không chỉ gây đau dữ dội, nó còn gây nên các vấn dề nghiêm trọng khác. Nó có thể gây nên các biến chứng đe dọa tính mạng như vỡ u nang buồng trứng xuất huyết và nhiễm trùng.
– Lâm sàng:
+ Đau dữ dội xung quanh vùng bụng
+ Đau khắp bụng
+ Buồn nôn và ói mửa
+ Đau nhiều khi chạm vào vú.
– Điều trị: cần phẫu thuật cấp cứu.
4.3. U nang buồng trứng xoắn
U nang buồng trứng do có vòi trứng dài, khu u nhỏ dễ bị xoắn hơn khối u lớn. Khi bị xoắn có thể gây ra thiếu máu và hoại tử buồng trứng. Xoắn cuống nang trong trường hợp u nang bì. Xoắn nang xảy ra khi u nang có cuống dài nên dễ di động và bị xoắn. Trường hợp nếu phát hiện muộn, khi khối u vỡ hoặc hoại tử bệnh nhân sẽ có nguy cơ tử vong.
Triệu chứng: đau bụng dữ dội, nôn ói, buồn nôn. Đây là tình trạng cấp cứu, phẫu thuật là chỉ định bắt buộc để giải quyết vấn đề.
Hình 13. U nang buồng trứng xoắn.
4.4. Có thai kèm u nang buồng trứng
Được chẩn đoán qua khám thai định kỳ hoặc qua siêu âm. Có thể gặp bất kỳ loại nang nào, nhưng hay gặp là nang hoàng thể hay u nang bì, ít khi gặp nang ác tính. Nếu tiên lượng sợ xoắn nang thì mổ càng sớm càng tốt. Nếu mổ sớm trong 3 tháng đầu thời kỳ thai nghén dễ gây sảy thai, do đó nên mổ vào thời gian sau 16 tuần vì lúc này rau thai đã tiết đủ progesteron để nuôi dưỡng thai, hơn nữa, nếu là nang hoàng thể thì lúc này cũng đã giảm kích thước hoặc không phát triển nữa, do đó không cần thiết phải mổ. Nếu u phát triển sau 16 tuần thì nên mổ ngay, trừ khi chỉ phát hiện được trong thời kỳ cuối thai nghén.
Hình 14. Tử cung có túi thai và phôi thai: Nang hoàng thể thai kỳ. Bệnh nhân có một thai kỳ sớm với phôi và túi thai trong tử cung. Siêu âm vùng tử cung cho thấy nang buồng trứng bên phải, có vỏ mỏng bao quanh và không có chồi sùi hoặc nốt bên trong, gợi ý của một u nang đơn giản (chức năng) của buồng trứng bên phải.
Hình 15. Bên trái cho thấy tổn thương vách dày có phản âm. Đây có thể dễ dàng nhận ra do thai ngoài tử cung. Cả hai thai ngoài tử cung và u nang hoàng thể đều biểu hiển giống nhau bao gồm cả sự hiện diện của “vòng lửa” hoặc hình ảnh mạch máu quanh tổn thương (trên SA Doppler màu). Buồng trứng bên trái không nhìn thấy tách biệt với u nang bên trái, cũng không có bằng chứng rõ ràng của dịch trong phôi, bên cạnh đó, sự hiện diện của thai trong tử cung dẫn đến việc chẩn đoán nang hoàng thể thai kỳ bên buồng trứng trái.
Hình 16. Xuất huyết nang buồng trứng với thai ngoài tử cung vỡ: Bệnh nhân nữ có u nang buồng trứng trái xuất huyết (hình bên trái). Ngoài ra, có một lượng lớn dịch tự do tăng phản âm trong vùng chậu. Ống dẫn trứng bên phải dày lên với một khối hình cầu. Điều này cho thấy có xuất huyết đáng kể ở vùng chậu do thai ngoài tử cung vỡ (thai ngoài tử cung ở vòi trứng P). U nang buồng trứng xuất huyết bên trái còn nguyên vẹn, loại trừ vỡ u nang xuất huyết.
5. Phương pháp phẫu thuật u nang
– Phẫu thuật nội soi ổ bụng:
Trong phương pháp này, phẫu thuật viên sẽ rạch da để đưa ống thông vào ổ bụng. Qua đèn soi xác định vị trí u nang và có thể loại bỏ u nang hoặc lấy mẫu cần sinh thiết ra.
– Mổ mở:
Đây là phẫu thuật xâm lấn bằng cách mổ qua thành bụng để loại bỏ u nang.
(Nguồn: PGS. TS Hà Hoàng Kiệm)
Để lại một phản hồi