Thục địa và hà thủ ô

THỤC ĐỊA CŨNG THỦ Ô

Công hiệu khác nhau

Thục địa công dụng như thủ ô, đều tư âm dưỡng huyết bổ can, ích thận. Mà cũng chứng can thận âm huyết khuy nhược thường dùng đến.

Nhưng thục địa sắc hắc chủ nhập thận, ích tinh, bổ tủy, tuấn bổ chân âm, kiêm bổ huyết dưỡng can, bổ hư lực thắng – (nuôi chất béo, không làm cản trở cho dạ dày).

Thủ ô sắc hồng chủ yếu vào Can, công dụng thiên bổ doanh huyết, kiêm tư âm bổ thận, cố tinh. Bổ hư, điều kinh lực không bằng thục địa, nhưng khu phong, giải độc triệt ngược thì thục địa lại không kịp.

Chủ trị khác nhau

1 – Thục địa hoàng chủ âm hư, kinh không đều, băng lậu, huyễn vựng, trúng phong.

Thủ ô chủ tâm thống.

Thục địa hoàng ngọt, ôn, tư nhuận, bổ huyết, dưỡng can. Nên chủ yếu dùng cho huyết hư, can hư bất tức, kinh nguyệt không đều, băng lậu, huyễn vựng đến trúng phong.

“Như kê phong phổ tế phương” – Vạn bệnh hoàn thục (can địa hoàng, đương quy dùng mật viên to bằng hột ngô, mỗi lần dùng 20 – 30 hột, lấy nước trắng chiêu thuốc, trước khi ăn – trị tất cả các bệnh hư, bất túc phúc hiếp đau nhức, mất máu, không đủ khí, không muốn ăn uống, luôn luôn phát nóng, đến phụ nữ kinh bệnh, kinh nguyệt không đều.

“Cục Phương” tứ vật thang : trị kinh Xung Nhâm hư tổn, kinh nguyệt không đều, đến bụng đau, băng trung lậu hạ. Dùng thục địa phối hợp với đương quy, xuyên khung, bạch thược.

“Nghi minh luận phương” – Địa hoàng ẩm tử : thục địa hoàng, ba kích thiên, sơn  thù du, thạch hộc, nhục thung dung, bào phụ tử, ngủ vị tử, quan quế, phục linh, mạch môn đông, xương bồ, viễn chí tán mạt. Mỗi lần dùng 3 đồng, gần đây thường dùng chữa trúng phong hay các chứng hậu di.

Thủ ô điều kinh không bằng thục địa. Nhưng trị huyễn vựng, trúng phong thì không kém – lại hay chỉ tâm thống. Như Hà thủ ô trị liệu tâm thống phương (nữ trinh tử, hà thủ ô, hoàng tinh, bại quy bản, trích xuyên sơn giáp, kê huyết đằng, đan sâm, xích thược, hồng hoa, trầm hương) trị can thận âm hư, tâm mạch ứ trở làm cho tim đau như vặn váng vất, tai ù, tim đập mạnh, khí đoản, lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch huyền tế hoặc trầm sáp.

2 – Thục địa hoàng chủ tri âm hư, lao tổn Hà thù ô chủ thống, thũng, tràng nhạc, tê liệt, ngược tật.

Thục địa tư bổ can thận, điền tinh, bổ tủy, cho nên chủ trị âm hư, lao tổn gây các bệnh lưng gối yếu, nuy, cốt chưng chiều nhiệt, di tinh, mồ hôi trộm, tiêu khát, râu tóc bạc sớm.

Như “Đan khê tâm pháp” Đại bổ hoàn (sao hoàng bá, chi mẫu, thục địa, quy bản, tủy lợn). Trị âm hư hỏa vượng, cốt chưng, chiều nhiệt, đạo hãn, ho khạc ra máu. thổ huyết, lưỡi đỏ không có rêu.

“Tiểu nhi dược chứng trực quyết” Lục vị địa hoàng, mẫu đơn bi, phục linh trị can thận âm hư, lưng gối, mềm yếu, đau nhức, mắt hoa, tai ù, tai điếc ra mồ hôi trộm, di tinh, cốt chưng, triều nhiệt, tiêu khát.

Thủ ô không những dùng chữa thương mê âm hư lao tổn. Vả lại giải độc, khước phong, triệt ngược, công hiệu lại thường dùng thống thũng, tràng nhạc, tê liệt, ngược tật. Như “Ngoại khoa tinh yếu” Hà thủ ô tán (phòng phong, khổ sâm, hà thủ ô, bạc hà) chữa nửa người sang thũng, ngứa, đau.

“Bản thảo hối ngôn” trị chứng tràng nhạc, hàn nhiệt doanh sấu. Dùng Hà thủ ô phối với hạ khô thảo thổ bối mẫu, đương quy, hương phụ, xuyên khung

“Kinh nghiệm phương” Trị cốt nhuyễn phong, lưng gối đau, đi giày không được, Nửa người mọc mụn, lở ngứa. Dùng thủ ô, ngưu tất tẩm rượu, sấy khô, tán mạt luyện mật hoàn

“Xích thủy huyền châu” Hà thủ ô hoàn, trị cửu ngược âm hư, tức dùng hà thủ ô tán nhỏ, miết huyết làm hoàn bằng hạt đậu, lấy thần sa làm áo. Đến canh năm lấy nước uống 2 viên.

3 –   Thục địa chủ trị quản thống, thôn toan, tiện bí. Hà thủ ô chủ trị sang phong, trì tật.

Thục địa tư âm, bổ can, nhuận tràng thông tiện. Dùng chữa âm hư, mộc hoành phạm vị , gây nên chứng hung quản hiếp thông, thôn toan, thổ khô, yết can, miệng táo, tiện huyết thành trì tật. Tiện bí. Như “Liều châu y hoạt” Nhất quán tiễn : bắc sa sâm, môn đông, địa hoàng, đương quy, câu kỷ tử, xuyên luyện tử) trị can mộc thừa vị (tức là mộc khác thổ). Vị quản đương tâm nhi thống, đến hiếp thống, nuốt chua, thổ chua, sán khí.

Thủ ô khiếp phong, giải độc, dùng chữa tràng phong, tri tật.

Như “Thánh huệ phương” Trị đại tràng phong độc, tả huyết không ngớt. Dùng hà thủ ô hai lạng dã nhỏ, trước bữa ăn lấy cháo nóng uống thuốc 1 đồng. Thủ ô chữa tri tật, tiện huyết, thường dùng với hòe hoa, địa du, sao chỉ xác, tân bông.

Đặc thù điều trị khác nhau.

“Biện chứng lục” Bình hỏa tán (thục địa hoàng, huyền sâm mỗi vị 5 đồng, mạch môn đông, sinh địa hoàng, mẫu đơn bì, sơn dược, thạch hộc, sa sâm, mỗi vị 3 đồng sắc thang uống. Trị nam tử quá nhiệt, không dễ có con.

“Y học nhập môn” Thắng âm hoàn (thục địa hoàng 5 đồng, bạch thược dược, chi mẫu, mỗi vị 3 đồng, thăng ma, can khương mỗi vị hai đồng, cam thảo 1 đồng tán mạt, lấy cháo làm viên. Trị bệnh đại tràng khí tiết lâu ngày.

Lâm sàng báo: Hà thủ ô chữa được chứng ho 100 ngày. Hà thù ô từ 2 – 4 đồng, cam thảo từ 5 g đến 1 đồng sắc thang, mỗi ngày 1 lễ. Chia làm 4-6 lần uống. Đã điều trị 35 ca. Khỏi hẳn 19 ca. Cơ bản khỏi 8 ca, chuyển biến tốt 4 ca – Vô hiệu 4 ca.

“Vương cổn bắc tế phương” Trị chứng rôm sẩy đầy người. Không cần chữa. Dùng hà thủ ô, ngân diệp đun nước tám gội, khỏi đau, chóng lên da non.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*