Khái niệm
Chứng Tàm khí âm đều hư là chi Tâm khí bát túe, Tâm âm bị hao tổn, xuất hiện những chúng hậu chủ yếu như hối hộp, sợ sệt, đoản hơi yếu sức, chất lưỡi đỏ rêu lưỡi tróc từng mảng. Bệnh phần nhiều đo phú bằm bất túc, cơ thể vốn hư yếu lại bị tà nhiệt xâm phạm vào Tâm hoặc là tư lự quá độ, tích lũy mệt nhọc, hoặc ốm lâu làm hao thương Tâm khí và Tâm âm gây nên bệnh.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hòi hộp sợ sệt đoản hơi yếu sức, tâm thần không yên, mất ngủ hư phiền, hễ động làm là ra mò hôi, lòng bàn tay – chân nóng khô, miệng, đầu lưỡi và ven lưỡi đỏ ít rêu lưỡi, chất lưỡi nhạt và sáng bdng mạch Tế Sác hoặc Kết Dại…
Chứng Tâm khí âm đều hư thường gặp trong các bệnh “Tâm quý chinh xung”, “Bất mị”, “Hung tý”.
Cần chẩn đoán phân biệt với “chứng Tâm khí hư”, “chứng Tâm âm hư”, “chứng Tâm khí huyết đều hư”.
Phân tích:
– Chứng Tâm khí âm đều hư có thể gặp trong nhiều tật bệnh. Như gặp trong bệnh Tâm quý chinh xung, phàn nhiều là thể trạng vốn khí hư, ngoại tà nhân chỗ hư mà xâm phạm, tà nhiệt xâm phạm ở trong làm hao thương Tâm âm gây nên bệnh, biểu hiện
lâm sàng là trong Tâm hồi hộp sợ sệt không yên, đoản hơi ngực khó chịu, lòng bàn tay chân nóng, đêm ngủ hay mê,, đầu lưỡi và ven lưỡi đỏ, ít rêu lưỡi mạch Kết Đại; piêu trị nên ích khí dưỡọg âm và ninh tâm, cho uống Thiên vương bổ tâm đan (Thế y đàc hiệu phương) gia giảm. ! > .
Chứng Tâm khí âm đều hư gặp trong bệnh “Bất mị”, đa số do thể trạng vốn âm hư, lại vì tư lự thái quá, lao thương Tâm Tỳ đến nỗi tâm khí bất túc doánh âtíi lại càng hư, Biểu hiện lâm sàng là khó ngủ, dễ thức giấc, hay mê, chóng quên, hồi hộp tiỉih thần mỏi mệt đoản hời, ỳếti sức lưỡi đỏ ít -rêu hoặc lưỡi nhạt ít, tân đích mạch Tế Sác; điều trị nên ích khí dưỡhg âm, điều dưỡng cả Tâm Tỳ, dùng bài Quy tỳ hang (Phụ nhấn lương phương) gia Mạch đông, Thiên đông.
Trong chứng Hung tý cũng xuất hiện chứng này, phần nhiều do lao thương tâm thần kéo dài, Tâm âm bất túc, nguyên khí hư tổn, đến nối cả khí âm của Tâm đều hư; Biểu hiện lâm sáng là vùng ngực bứt dứt có lúc đau, tim hồi hộp, miệng khô, họng đau, mỏi mệt yếu sức, mồ hôi trộm lưỡi nhạt, ven lưỡi đồ, rêu lưỡi trắng mảng hoặc ít tân chịch, mạch Kết Đại; điều trị nên ích khí dưỡng tâm, tư âm phục mạch, dùng bài Trích cam thảo thang (Thương hàn luận) gia giảm.
Chứng này hạy phát sịnh ở n^ười thể trạng vốn âm hư hoặc khí hư, lại đo mệt nhọc quá độ, tư lự nhiều, hoặc lại bị tà nhiêt xâm phạm vào Tâm, hao thương khí âm gây nên. Lâm sàng cũng có thể thấy trường hợp Tâm khí vốn hư lại dùng quá nhiều phép phát hãn, làm hao thương khí và hư tổn tân dịch, Tâm âm bị cựớp đoạt, Tậm khí bị. haọ thựợng, dẫn đến chứng này, cho nên không thể không cẩn thận.
Trong quá trình biến hđa của chứng này và Tâm khí âm đều bất túc, nếu không chú ý chăm sóc, lại bị cảm nhiễm ngoại tà hoặc lao thương tâm thàn hoặc chữa chạy không thích hợp, có thể dẫn đến chứng Tâm âni dương đều hư, thậm chi lầm hao kiệt tinh khí của Tâm nguy hiểtn đến sính mạng.
III) Chẩn đoán phân biết:
Chứng Tám khí hư với chứng Tàm khí âm đều hự: cả hai đều; biểu hiện lâm sàng là Tâm khí bất túc nhự hòi, hộp đoản hơi, tinh thân mỏi mệt. Nhưng trọng điểm của chứng Tâm khí hư có đặc trưng là hồi hộp tự ra mồ hôi, sác mặt tráng bệch, đoản hơi thở suyễn động làm thì bệnh tăng. Còn ẹhứng Tâiụ khí âm đều hư không chỉ biểu hiện tinh trạng Tâm khí hư jnà còn. cả Tâm âm bất túc, âm hư hỏa vượng, có thể xuất hiện các chứng trong miệng khô, ít tân dịch và ngũ tâm phiền nhiệt. Về biến hóa của lưỡi: Chứng Tâm khí hư thì lưỡi nhạt bệu. réu lưỡi mỏng hoặc có vết răng. Chứng Khí âm đều hư thường có cả âm hư nội nhiệt, cho nên thấy đầu lưỡi và ven lưỡi đỏ, ít rêu, hoặc sáng bóng. Dây là cơ sở phân biệt rất rô.
– Chứng Tâm âm hư với chứng Tâm khí âm đều hư: cả hai đều biểu hiện lâm sàng là Tâm âm bãt túc, có các chứng trạng như hồi hộp chinh xung tâm phiền, lòng bàn tay chân nóng. Nhưng bệnh cơ của chứng Tâm âm hư là âm hư hỏa vượng, cho nên chúng hậu hư nhiệt rất rõ rệt, có chứng trạng tâm thần khôrig yên, ngũ tâm phiên nhiệt miệng khô họng đau. Còn chứng Tâm khí âm đều hư ngoài chứng Tâm âm hư ra còn có những hiện tượng Tâm khí bất túc như đoản hơi yếu sức, mạch Kết Dại. Loại trên thì lưỡi đỏ ít rêu, hòặc sáng bóng; loại dưới tuy cũng có hiện tượng về lưỡi như đã nđi ở trên, nhựng lưỡi phần nhiều nhạt bệu rêu lưỡi tráng mỏng hoặc chóc mảng. Nên chú ý phần biệt.
– Chứng Tâm khí huyết đều hư với chứng Tâm khí âm đều hư: Cả hai đều biểu hiện khí huyết của Tâm bất túc, ctí các chứng trạng như hồi hộp, sợ sệt mãt ngủ hay quên mạch Tế Sác hoặc Kết Đại. Nhưng loại trên còn có thêm các chứng sác mặt không tươi, váng đàu hoa mất, tai ù tai điếc, chất lưỡi nhạt. Loại sau thì có thêm các chứng về âm hư ít tân dịch, hoặc hư hỏa như ngũ tâm phiền niiiệt, mồ hỗi trộm, miệng khô rều lưỡi chdc mảng sáng bóng. Cũng cần chi rõ chứng Tâm khí huyết đều hư với chứng Tâm khí âm đều hư, thường chuyển hộa lẫn nhau, bởi vì àm dịch và khí huyết vốn cùng một nguồn gốc.
Y văn t*ích, dấn
– Nãtti tạng là nới chủ ýểu để chứa tinh khổng được làm tổn thương, nếu bị tổn thương thì thất thủ, dẫn đến âm hư, âm hư thì không có khí, không có khí thì tử vong <Bảh thần – Linh khu). Có trưòng hợp ãth khỉ bị hư ở trong, hư hỏa vọng độĩig, hồi hộp, thể trạng gầy, ngũ tâm phiền nhiệt, mặt đỏ môi khô mạch bên tả hơi Nhược hoậc Hư Đại vô lực là bệnh này (Chứng trị vậng bổ).
Để lại một phản hồi