Khái niệm
Chứng Phế khí suy tuyệt là gọi tóm tát cho công nãng của tạng Phế biểu hiện suy kiệt, không lànv chủ khí mà xuăt hiện tinh trạng tông khí suy bại, mất chức nâng hô hấp, thậm chí không thực hiện được nhiệm vụ thăng giáng vào ra của khí mà gây bệnh; Chứng này nguyên nhân phần nhiều do ốm lâu hao tổn, chính khí hư suy, hoặc chính khi với tà khí tranh giành nhau, tà thịnh chính suy, khiến cho khí cơ nghịch loạn, âm dương chia lìa…
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hộ hấp nhỏ yếu, hơi thở không nối tiếp, mồ hôi ra như giọt châu, ớn lạnh sợ lạnh, sác mật nhợt hoặc tối xạm, lưỡi nhạt hoặc xanh tía, mạch Phụ Tán vô luân hoặc Vi Nhược vô lực thậm chí ngừng thở.
Chứng Phế khí suy tuyệt lậ chứng bệnh thường gập ở người bệnh trước lúc lâm chung, các chứng trạng bệnh nặng hiểm nghèo ở giai đọạn cuối thường xuất hiện chứng này. Bệnh đã đến Phế khí suy tuyệt thì tùy thòi có thề dẫn đến ngừng thở mà kết thúc sinh mạng, cần phải tích cực cứu chữa.
Cần chấn đoán phân biêt với các chứng Phế khí hư, chứng Phế khí âm đều hư và chứng Thận không nạp khí.
Phân tích
Chứng Phế khí suy tuyệt thường gặp trong cáớ bệnh thuộc Phê hệ như Khái thấu, Háo suyển, Phể lao, Phế nuy, Phế ung,
Khái huyết, và cũng thường gặp ở giai đoạn cuối các bệnh phát nhiệt, tự ra mồ hôi, cảm mạo, Thủy thũng và Long bế.
Chủng Phế khí suy tuyệt có khi do Hư gây nên, có khi do Phế khí hư, ỵếu, ốm lâu hao ítổtt, dần dà dẫn đẹn Phế khí suy tuyột, hoặc 49 Phế âm khuy tổn, bệnh Âm tổn hại liên lụy đến Dương, cuối cùng dẫn đến âm kiệt dương tuyệt, Phế khí suy tuyệt.
Chứng Phế khí suy tuyệt cũng có khi do Thực mà diễn biến thành, phần nhiều do Thực tà gây bệnh như đàm ẩm, thủy thấp, ứ huyết làm nghẽn trở khí cơ, hô hấp không lợi, Phế khí từ thực chuyển hư, chỉnh” khi không tháng nổi tà khí, cuối cùng dẫn đến chính suy khí tuyệt, hình thành chứng Phế khí suy tuyệt.
Phế khí suy tuyệt thì khí mất vai trò lắm chủ, tông khí suy vi, cho nên hô hấp nhỏ yếu, suyễn gấp không ngỉíng, hơi trên khỏng tiếp hơi dưồi, thậm chí lúc thd lúc ngừng gián đoạn, dàn dần đến ngìíng thở.
Vị khí khai phát tìí Thượng tiêu, dựa vào tác dụng tuyên phát của Phế khí mà phân bố ra toàn thân. Phế khí suy tuyệt thì Vị khí không bền, tân dịch tiết ra ngoài, dương khí theo đtí cũng thoát, cho nên thân thể lạnh sợ lạnh, ra mò hôi như giọt châu. Phế khí suy tuyệt, khí không tươi nhuận lên trên, cho nên sác mật tráng nhợt và lưỡi nhợt. Tông khí suy bại, khí tán loạn nên sức cô’ động yếu, cho nên mạch Phù Tán vô luân hoặc Vi Nhược mà vô lực. Khí là soái của huyết, khí lưu thông huyết cũng lưu thông, khi suy thì huyết trệ rít không thông, cho nên sấc mặt có lúc tía xạm, chất lưỡi có khi tím tái.
Phàm Phế khí hư yếu mà hao mòn dần thì thấy Phế khi suy tuyệt, suyễn gấp ra mô hôi mà thở không tiếp nổi hoặc lúc thở lúc ngừng, thân thê’ ớn lạnh sợ lạnh, phải cấp cứu ích khí cố thoát, cho uống Độc sâm thang (Thập dược thần thư), Sâm phụ thang (Phụ nhân lương phương).
Nếu Phế âm hự tổn, Âm hư tổn liên lụy đến dương, âm kiệt khí thoát mà thấy các chứng miệng khô mật đỏ, phiên táo không yên, mạch Tế Nhược vô lực. phải ích khí dưỡng âm cố thoát ngay, có thẹ dùng Sinh mạch tán ‘Nội. ngoại thương biện hoặc luận.1 liều cao, sắc bao nhiêu uống bấv nhiêu.
Chứng Phế khí suy tuyệt nguy cấp trong khoảnh khấc, cần tích cực cứu chữa. Trong quá trình diễn biến các tật bệnh nội khoa, Phế khí suv vi, đều xuất hiện Phế khí suy tuyệt như suyễn gấp thở khó, khf không tiếp nối. thậm chí ngừng thở tìíng lúc, chính như sầch Trực chỉ phương nói: “Cái loại bệnh nguv kịch, khi chinh khi muốn ihoãt, tà khí thịnh hành, đều úng nghịch mà suyễn’ Nêu CHÍ kiêm chứng đờm sùng suo thở thỏ, đơm đỉnh lượng nhiêu, trong họng co Lipng đờm khò kh^, nín kịp thời hút đờm để duv tri đường hô hấp lưu thông cung co thế thêm các phép hoă đàm. Nếú co’ kiêm ứ huyết, không lưu thõng, mật môi tim tái, cũng có thề thếin cả thuốc hóa đàm. Nhưng phải lấy ích’khí cố thoát cứu Phế khỉ làm nhiệm vụ cấp thiết, như Ngô Cúc Thông từng nói: “Thái âm Thử ôn… ra riiồ hôi nhiều, mạch Tán Đại, suyễn nấc muôn thoát, bài Sinh mạch tán chủ chữa bệnh ấy”.
Ngoài ra, chứng Phế khí suy tuyệt còn gặp trong các trường hợp vấp ngã ngoại thương, tổn hại do phát hãn nhầm, vậ người sau khi đẻ bị mất nhiều huyết. Khí là soái của huyết, huyết là mẹ của khí, huyết để chở khí. Nếu mất huyết, mất tân dịch, khí sẽ thẹo huyết và tận dịch mà thoát, thì có cặc chứng trạng suyễn gẳp đoản hơi, hô hấp nhồ yếu, mồ hôi ra như giọt châu thậm chí hơi thở gián đoạn hoặc ngừng thở.
Chứng Phế khỉ suy tuyệt trong quá trình diễn biến bệnh tình thường liên lụy tới Thận là do tinh khí suy bại, Phế không làm chủ khí, Thận không nạp khí, sác mặt tía tối, ra mồ hôi không dứt, hơi thở sâu dài, hơi không tiếp nối, nhị tiện không tự chủ, thậm chí hơi thở đứt nói không đều, cuối cùng ngìíng thở mà tử vong.
Cũng có khi liên lụy tới Tâm, Tâm khí suy kiệt mà xuất hiện hồi hộp suyễn gấp, môi lưỡi tím tái, mạch Vi Tế muốn tuyệt hoặc Kết Đại không đều, cuối cùng Tim ngừng đập đẫn đến tử vong.
Chẩn đoán phân biệt
Chứng Phế khí hư, chứng Phế khí âm đều hư với chứng Phế khí suy tuyệt, ba loại chứng bệnh tạng Phế hư tổn, nhưng nguyên nhân, cơ chế bệnh và mức độ bệnh biến không giống nhau.
Chứng Phế khí suy tuyệt thường có thể do chứng Phế khí hư và chứng Phế khí âm đều hư biểu hiện vào giai đoạn diễn biến suy tuyệt, ba loại này lâm sàng đều biểu hiện suyễn gấp đoản hơi, ra mồ hôi, mạch Hư Nhược, nhưng có mức độ khác nhau. Phế khí hư và chứng Phế khí âm đều hư chưa đến mức độ hô hấp lúc thỏ lúc ngỉíng, mồ hôi ra như giọt châu, mạch Phù Tán vô căn, chỉ là công năng của Phế khí suy giảm nói chung, chưa đến nỗi suy tuyệt. Còn chứng Phế khí suy tuyệt thì là công năng của tạng Phế suy sụp tột cùng, sáp đến chỗ cạn kiệt, cho nên hô hấp lúc thở lúc ngừng, mô hôi ra như giọt châu, mạch Tán Đại vô luân thậm chí rigừng thở.
Chứng Phế Thận khí hư (chứng Thận không nạp khí) với chứng Phế khí suy tuyệt: Chứng Phế Thận khí hư nguyên nhẩn phàn nhiều do ốm lâu suyễn khái, lao thương Thận khí, tổn hại đến Phế Thận mà thành bệnh, Thận mất sự thu nhận cho nên thở ra thì nhiều, hít vào ít, động làm bệnh tăng; Thận chủ về đại, tiểu tiện, cho nên đại, tiểu tiện không tự chủ hoặc ho văi đái; Khí hư thiếu sự ấm áp cho nên chân tay lạnh, mặt xanh, tự ra mồ hôi; Còn chứng Phế khí suy tuyệt là thuộc Phế khí Mệt tuyệt, mất vai trò chủ yếu là hô hấp, cho nên lức thở lúc ngừng, mồ hôi ra như giọt châu, thậm chí ngừng thở, mạch Phù Tán mà vô luân, phàn nhiều do tạng Phế suy kiệt, tông khí suy bại gây nên, Hai chứng này có thể phân biệt trong lâm sàng.
IVệ Ỹ văn trích dẫn
Thủ Thái âm khí tuyệt thì lông tóc khô cháy; là vì Thái âm hành khí ra bì mao. Cho nên khí không tươi tốt thì lông tóc khô cháy; lông tóc khô cháy thỉ tân dịch mất đi sự mềm mại ở ngoài đa, cũng vì thế mà mđng tay chân khô ròn; móng tay chân và lông tdc khô ròn đó là lổng tóc chết từ trước, Bính hung hãn thì Đinh chết, đó là Hỏa thắng Kim (Kinh mạch thiên – Linh Khu).
Người bệnh Phế tuyệt thì 3 ngày chết. Tại sao biết như thế? Là vì chỉ há miệng thở ra chứ không hít vào (Bình mạch – Bị cáp thiên kim yếu phương).
Mạch Phù mà Hồng, mình ra mồ hôi như dầu, suyễn không ngớt, đó là Phế tuyệt (Ngũ tạng tuyệt chứng – Tứ chán quyết vi).
Tiếng như ngáy ngủ là Phế tuyệt. Suyễn mà ra mồ hôi ướt đàm tđc cũng là Phế tuyệt. Mạch Sác chân tay lậnh là mạng không thọ. Suyễn khái thổ huyết không nầm được, thể trạng súy, mạch Đại thở nhiều thì chết (Tạp bệnh tăm pháp yếu quyết – Y tông kim giám).
Để lại một phản hồi