Đa số các bệnh lý của màng phổi (MP) là biến chứng của một bệnh khác tại phổi hoặc ngoài phổi. Chỉ một số rất ít trường hợp là nguyên phát như viêm màng phổi nguyên phát (do vi khuẩn từ trong máu đi thẳng vào màng phổi) và ung thư màng phổi nguyên phát.
TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI VÀ TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI
Bình thường 2 lá màng phổi áp sát vào nhau và chỉ có 1 ít dịch trong khoang màng phổi (khoảng 15ml ) để bôi trơn bề mặt màng phổi. Khi có một lượng dịch nhiều hơn tụ lại hoặc có khí thì gọi là tràn dịch màng phổi và tràn khí màng phổi (Hình 27). Bảng sau đây trình bày tóm tắt các loại tràn dịch, tràn khí và các nguyên nhân tương ứng thường gặp:
Hình 27: Tràn mủ màng phổi
VIÊM MÀNG PHỔI
Thường gặp trong các bệnh lý sau:
Bệnh hệ tạo keo: sốt thấp, viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống.
Nhiễm khuẩn: viêm phổi, lao phổi, áp xe phổi.
Nhồi máu phổi.
Ung thư phổi.
Hầu hết các viêm màng phổi đều có tràn dịch màng phổi kèm theo. Tùy theo nguyên nhân, dịch ứ lại có thể là dịch tiết thanh – tơ huyết, mủ hoặc máu. Tùy mức độ viêm, viêm màng phổi có thể khỏi hoàn toàn hoặc có hoá sợi gây xơ hoá màng phổi.
UNG THƯ MÀNG PHỔI NGUYÊN PHÁT
Còn gọi là u tế bào trung biểu mô ác tính (malignant mesothelioma), có liên quan chặt chẽ với bệnh bụi phổi asbestos. Thời gian từ lúc tiếp xúc asbestos đến lúc phát triển ung thư thường ước tính khoảng 30 năm. Bệnh nhân bị đau ngực, khó thở càng lúc càng nặng và thường chết trong vòng 2 năm kể từ khi được chẩn đoán.
Hình thái tổn thương
Đại thể: ung thư lan rộng khắp màng phổi, xâm nhập vào các cấu trúc của lồng ngực (thần kinh liên sườn, mạch bạch huyết, hạch trung thất). Toàn bộ phổi bị bao bởi mô u dầy, màu xám.
Vi thể: u cấu tạo bởi 2 thành phần trộn lẫn với nhau. Thành phần biểu mô gồm các tế bào hình vuông hoặc trụ, tạo thành nhú hoặc các ống tuyến; thành phần trung mô gồm các tế bào hình thoi trông giống như sarcôm sợi. (Hình 28)
Hình: Ung thư màng phổi nguyên phát, toàn bộ phổi bị bao bởi mô bướu (A);U cấu tạo bởi thành phần tuyến (1) và thành phần giống sarcôm sợi (2, B)
Để lại một phản hồi