Xích thược thanh nhiệt, lương huyết, có công dụng hoạt huyết hành ứ, cùng với đan bì công dụng gần giống như. Xích thược hoạt huyết, tán ứ so với đan bì thì mạnh hơn. Nhưng lương huyết, thanh nhiệt lại không bằng đan bì. Về mặt điều trị xích thược nặng về huyết, gan.
Mẫu đơn bì hay thanh huyết nhiệt – đã có tác dụng thanh tà nhiệt ở huyết phận, lại còn trừ âm hỏa ở huyết phận, táo hỏa. Tuy hoạt huyết hành trệ nhưng không mạnh lắm. Cho nên hỏa thoái thì âm sinh thế là có công dụng thay huyết cũ, sinh ra huyết mới. Tác dụng trị liệu nặng về huyết, tâm và thận
Chủ trị khác nhau
1 – Xích thược chủ trị thực hỏa huyết phận Đan bì lại chủ trị hư hỏa ở huyết phận
Xích thược và đan bì đều có công dụng thanh nhiệt lương huyết. Chuyên dùng cho các bệnh ôn, nhiệt vào doanh huyết làm cho thân thể nóng ran, đến nỗi hôn mê, cuồng giản, nói nhảm, nói mê, lưỡi đỏ. Hai vị này thường hay phối hợp dùng. Như “bị cấp thiên kim yếu phương” bài tê giác địa hoàng thang.
Đan bì hay tả âm trong hỏa, nên cùng dùng chữa âm hư huyết nhiệt, hoặc nhiệt xâm nhập vào âm phận gây nên âm hư mà phát nhiệt cốt chưng, lao nhiệt. Như “Phổ tế phương” có bài mẫu đơn thang gồm: mẫu đơn bì, quế, mộc thông, thược dược, miết giáp, thổ qua căn, đào nhân để chữa bệnh cốt chưng ở phụ nữ, kinh mạch không đều, ngày một gầy yếu đi.
2 – Xích thược chủ thổ huyết, nục huyết, sưu huyết, tiêu huyết mà là thực chứng.
Đan bì chủ trị âm hư xuất huyết, hư chứng.
Xích thược cùng với đan bì đều là vị thuốc thanh nhiệt lương huyết, hoạt huyết, hành ứ. Chuyên trị huyết nhiệt, đông huyết, cho đến huyết ứ sinh ra các bệnh đổ máu cam, đái ra máu, nước giải có máu. Hai vị thuốc này thường dùng phối hợp. Như bài tê giác địa hoàng thang trị thổ, nục huyết, tiện huyết, phát ban, lưỡi đỏ các chứng.
Đan bì thanh huyết nhiệt, khôi phục lại âm khí, hoạt huyết để sinh tân dịch. Chuyên dùng vào các bệnh âm hư, huyết nhiệt, nhiệt tà vào âm phận gây nên các chứng: thổ, nục, tiện, sưu huyết, băng huyết, lậu huyết. Như “Bắc kinh thị lão trung y kinh nghiệm tuyển biên” thương ngọc tiềm long thang, gồm địa hoàng, quy bản, sinh thạch cao, long sỉ, thạch hộc, thiên hoa phấn, đan bì, sa sâm, bạch thược dược, linh dương giác, lại sinh ra trướng thiếu huyết , mà sinh chứng đầu váng, đầu đau. Người thiếu sức khỏe sau buổi trưa (giờ ngọ) nhiệt độ lại càng thấp, tiếp thu chất ăn uống không được mấy, đại tiện khô, đổ máu cam và răng lợi ra máu. Đáy mắt ra máu.
3 – Xích thược chủ trị huyết ứ, kinh nguyệt không đều Đan bì chủ trị âm hư, hiệp ứ, kinh nguyệt không đều
Xích thược cùng đan bì đều có công dụng hoạt huyết hành trệ. Cho nên chuyên trị huyết ứ, kinh không đều. Như “Thập tiện lương phương” – bài Chỉ mê ôn kinh thang gồm đương quy, xuyên khung, thược dược, mẫu đơn bì, quế, nga truật, nhân sâm, cam thảo, ngưu tất chữa phụ nhân đường kinh không thông, rối loạn, bệnh hàn sán đau nhức, mạch trầm và khẩn.
Đan bì thanh nhiệt sinh âm, hoạt huyết, sinh ra huyết mới, cho nên chuyên dùng cho các bệnh âm hư, huyết ứ, kinh không đều. Như “Phổ tế phương” bài mẫu đơn thang gồm mẫu đơp bì, thược dược, thổ qua căn, quế tâm, sao mộc thông, miết giáp, sao đào nhân để chữa bệnh cốt chưng ở phụ nữ kinh mạch không thông, dần dần sinh ra gầy mòn, yếu đuối.
4 – Xích thược chủ trị huyết ứ ở hung, hiếp, bụng đau
Mẫu đan bì chủ trị âm hư, yêu tích đông thống (thắt lưng, lưng đau nhức).
Xích thược chủ trị huyết ứ, huyết thống, phúc thống
Mẫu đan bì không những chủ trị phúc, huyết thống, huyết ứ thực chứng mà còn chữa được chứng – âm hư thắt lưng và sống lưng đau, Như “tiểu nhi dược chứng trực quyết” bài lục vị địa hoàng thang : thục địa hoàng, sơn thù du, can sơn dược, trạch tả, phục linh, đan bì, để chữa các chứng bệnh phần âm bất túc, lưng gối yếu mềm, xương nóng đau nhức, tai ù, chóng mặt Tứ vật trọng gia đan bì chữa đàn bà vì kinh huyết, nhiệt mà khô, lưng gối đau mỏi, đêm nóng, phiền khát rất hay – hiệu nghiệm.
Đặc thù sử dụng khác nhau
“Thánh tế tổng lục” trị bệnh lưỡi cứng, sưng, đau, miệng tắc chết người, dùng xích thược, cam thảo sắc uống lưỡi sẽ mềm và nói được.
“Bản thảo cương mục” trửu chân nói rằng: Mẫu đơn bị chuyên trị bệnh ở kinh thiếu âm thủ túc, quyết âm bốn kinh, huyết phận phục hỏa. Nếu có hỏa mai phục tức là âm hỏa vậy, âm hỏa tức là tướng hỏa vậy. Lý thuyết này trải qua hàng nghìn năm vẫn bí mật không ai biết. Cho đến nay mới phát hiện ra được.
“Thiên kim phương” trị bệnh sán khí, thiên trụy. Khí trướng không đông dùng mẫu đan bì, phòng phong tán mạt uống với rượu rất hay.
Để lại một phản hồi