Vị thuốc tử tô và sinh khương

TỬ TÔ CÙNG SINH KHƯƠNG

Công dụng khác nhau:

Tử tô và sinh khương đều là vị thuốc phát biểu, tán hàn, giải được chất độc của cá và cua. Cho nên trong lâm sàng thường phối hợp sử dụng. Nhưng tử tô sở trường lý khí và khoan trung, sắc tia nên vào huyết phận, thông mạch, hòa doanh. Còn sinh khương thì ôn trung chi ấu, chữa đờm, khỏi ho, nên làm cho tinh thần thông suốt.

Sinh khương thông được thân mình vì có vị cay vào tim thông suốt các khiếu có khả năng mở được các hang hốc đẩy được đàm ẩm ở sâu làm thông khiếu, khiếu thông nên thông thần minh nghĩa là thế. Sinh khương cay mà không có tính kích thích. Khử được tà khí và thanh lọc các chất bẩn. Phàm tà khí, chất bẩn chất độc xâm nhập vào làm ứ trệ thần khí, thần khi bị hôn mê. Dùng sinh khương có thể chữa thanh được uế khí thì thần minh thông suốt. Sinh khương cay tân lại phá được huyết trệ. Thông huyết mạch tâm khí. Mạch là nơi thần tại, tâm chủ thần minh. Cho nên muốn thần minh phải thông dương khí. Tinh chinh là để nuôi dưỡng thân. Thần minh chính là sự linh cảm của dương khí. Sinh khương cay ôn, giúp cho dương khí ức chế âm khí nên thông được thần minh.

Chủ trị khác nhau

1.  Tử tô chủ trị phong hàn ở biểu chứng.

Sinh khương thanh đờm trị khái thấu (ho suyễn).

Tử tô và sinh khương đều là vị thuốc phát tán phong hàn cho nên trị dược chứng phong hàn ở biểu, và thường dùng phối hợp hai vị. Như “Bản thảo hối ngôn” dùng 5 miếng sinh khương chữa cảm mạo phong hàn 5 lá tử tô 30 khấc, cho nước sắc uống. Lại như “Y tôn kim gián” có bài Hạnh tô ẩm gồm có hạnh nhân, tử tô, tiền hồ, cát cánh, chỉ xác, tang bạch bì, hoàng cầm, sinh cam thảo, mạch môn đông, chiết bối mẫu, quất hồng, sinh khương. Dùng đế chữa chứng thương phong, phát nóng, ghét lạnh, nhức đầu, ra mồ hôi, ho suyễn, hắt hơi sổ mùi, mũi tác tiếng nổi nặng.

Sinh khương chữa được ngoại cảm phong hàn ở bên ngoài, về láu dài còn chữa ho, hóa đờm. Như “Thiên kim phương” dùng mật trắng và sinh khương chữa được bệnh ho suyễn lâu 30 năm. “Bản thảo hối ngôn” dùng sinh khương, thang bằng đường chữa chứng ho có đờm. “Cục phương” có bài nhị trần thang gồm phục linh, trần bì, bán hạ, cam thảo, sinh khương, ô mai để trị bệnh đàm thấp, ho.

2.  Tử tô chủ trị bụng đầy nôn ọe Sinh khương trị vị hàn nôn mửa.

Tử tô lý khí khoan trung, dùng chữa khí trệ, bụng trướng, nôn mửa, át khí. Như “nhiễm bệnh lưu tê… có bài tử tô ẩm (tử tô, hạnh nhân) trị bệnh ăn uống không điều độ mà thành tích, trong bụng lúc nào cũng có cái gì canh cánh không yên ổn. “Bàn sự phương” có bài Tử tô ấm (tử tô diệp, đại phúc bì, nhân sâm, xuyên trần bì, bạch thược, đương quy, trích cam thảo, trị bệnh tử huyền tức là thai khí không hòa, bụng đầy và đau.

Sinh khương là thuốc chủ yếu chữa nôn mửa, ôn trung. Như “kim quỹ” nôn ọe khan, nếu chân tay lạnh rã rời, dùng bài quất bì thang để chữa, (quất bì 4 lạng, sinh khương nửa cân).

3.  Tử tô dùng an thai, tử ngạnh lại càng hay.

Như “Thọ thế bảo nguyên” có bài an thai ẩm gồm đương quy; bạch thược dược, trần bì, thục địa, xuyên khung tô ngạnh, hoàng cầm, sao bạch truật, sa nhân, cam thảo) chữa bệnh có mang, không khéo dưỡng thai để đến nỗi suýt tiểu sản (sẩy thai). “Y tôn kim giám” có bài tử tô ẩm gồm đương quy, xuyên khung bạch thược trần bì, đại phúc bì, tô ngạnh diệp (cả cành lá tử tô) cam thảo, chữa bệnh tử huyền (động thai, thai cựa) sinh hung cách trưởng mãn (bụng đầy không thông khí).

Sinh khương trị bệnh tý thống (đau cánh tay, vai). Như “bản thào tòng tân” dùng sinh khương giã vắt nước hòa với hoàng minh giao, uống nóng, chữa bệnh phong thấp ở cánh tay, vài sinh đau. ”Kim quỹ yếu lược’’ có bài quế chi thược dược chi mẫu thang gồm có quế chi, thược dược, cam thảo, ma hoàng, sinh khương, bạch truật, tri mẫu, phòng phong, phụ tử, trị bệnh đốt sương ở chân tay bị đau, thân thể gầy yếu, bắp chân teo lại, gót chân đau nhức như muốn rời ra, khí đoản, đầu nặng lúc nào cũng buồn nôn. Đều phải trọng dụng sinh khương.

4.  Tô diệp – tô ngạnh trị thổ huyết, hạ huyết. Sinh khương trị thần hôn.

Tử tô ngạnh, không chỉ là dược khí, mà còn vào huyết phận lý khí, hoạt huyết, thông huyết mạch, sơ can đế tàng huyết, ích tỳ để thông huyết hay chữa được các bệnh thổ ra máu, máu cam, hạ huyết, xuất huyết. “Trực chỉ phương” có bài mao tô thang gồm mao hoa, tử tô diệp, trị thổ huyết và nục huyết. “Thánh huệ phương” có bài tử tô tán phương gồm tử tô, quế tâm, sinh can địa hoàng, a giao, đương quy, ngưu tất trị chứng thổ huyết, bệnh nục huyết (đổ máu cam không chỉ).

“Phổ tế phương” có bài ký sinh thang trị bệnh phụ nữ kinh huyết ra nhiều, rồi sinh bệnh đới hạ, hoặc hành kinh ra lâu không cầm, tức thì phải dùng tang ký sinh, kê tô, đạm trúc, thược dược, địa du, bạch long cốt.

Sinh khương hay thông thần minh, trị bệnh thần hồn hoặc thần chí bất thường. Như “phổ tế phương” có bài sinh khương ẩm (nước sinh khương, nước sinh địa hoàng) trị bệnh hậu sản ác huyết ứ lên tim, hôn mê như trông thấy ma quỷ, muốn chết.

“Thánh tế tổng lục” có bài kinh Lịch thang (kinh lịch trúc lịch, nước sắn giây sống, nước sinh khương) trị chứng mới trúng phong, chân tay không cầm nám, được, tâm thần hoảng hốt không biết ai, kể cả người thân, không muốn nói năng nữa

Đặc thù sử dụng khác nhau

Lâm sàng báo kinh nghiệm: lá tử tô chữa cả những bệnh tầm thường như nốt ruồi, các bệnh nhiễm độc ở bì phu. Dùng lá tử tô sát vào dùng nước lá tử tổ rửa sẽ hết nốt ruồi. Mỗi lần dùng khoảng từ 10 đến 15 phân, mỗi ngày một lần: trị 20 lần, liên tục ma sát từ 2 đến 6 lần bệnh đã đỡ.

“Chứng trị chuẩn thằng” có bài ô kim tán gồm có do chấu (!) lá tô tử hai vị bằng nhau, tán nhỏ dùng dầu thơm bôi vào từng cục bộ để trị sang chẩn gây đau đớn.

Lâm sàng báo kinh nghiệm: sinh khương chữa bệnh hột dái bị viêm cấp tính. Dùng củ gừng già to mập, lấy nước rửa sạch, thái thành từng miếng 0,2 ly, chia các miếng dày đều nhau mỗi lần dùng từ 6 đến 20 miếng, ngoài sát vào bên cạnh âm nang (bì dái) rồi lấy vải mỏng che lên trên bọc kín cả âm nang, mỗi ngày, hoặc cách một ngày lại thay một lần, cứ làm như thế cho đến khi khỏi hẳn thì thôi. Dã trực trị cộng 24 ca bình quản từ 3 đến 9 ngày khỏi hẳn. Trị ngược tật dùng ít gừng sống rửa sạch để ráo giã nát , rải ra vài mỏng, gói lại thành một gói, đổ vào trên huyệt, rồi lấy vải mỏng buộc cố định hoặc dùng băng dính giữ lấy miếng thuốc đã bọc. Lần thứ nhất dùng sinh khương hai lạng đổ vào hai huyệt bên sương đầu gối (tất nhãn). Lần thứ hai đổ thêm vào huyệt đại tràng, dùng sinh khương hai lạng chia đổ vào ba huyệt. Lần thứ ba đổ một huyệt đại tràng, với sinh khương 5 đồng cân. Có nơi làm như thế từ 4 đến 6 ngày, kinh nghiệm từ 8 đến 12 ngày có thể bỏ ra được. Hai lần dùng thuốc điều trị như vậy bệnh khỏi.

“Tố vấn bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập” có bài vạn 1 họ địa chi hoàn gồm sinh khương sấy 4 lạng, thiên môn đông bỏ lõi 4 lạng, chi xác sao, cúc hoa mỗi vị hai lạng. Những vị thuốc này đều giã nhỏ. Dùng mật làm hoàn, viên bằng hột ngô to. Dùng nước chè hoặc rượu uống 100 viên. Chữa được bệnh mắt cận thị, không trông được xa.

“Dương y đại toàn” có bài hòa long cao gồm sinh khương nửa cân, cao da trâu 2 lạng, nhũ hương một dược tán mỗi vị 5 đồng, xạ hương 1 đồng sinh khương giã vắt lấy nước. Cho cao da trâu vào nồi đun cho chảy ra rồi cho các thứ thuốc vào quấy đều, lấy thuốc còn nóng bôi vào chỗ bệnh, chữa được chứng phong thử thấp xâm nhập vào kinh lạc làm cho gân cốt đau, hoặc chi tiết phiền thống (đau, buồn) do đờm thấp lưu chú làm ra đau không đi bộ được, hoặc bị bệnh hạc tất phong.

“Y học trung trung tham tây lục” có bài khương giao cao, gồm khương chấp (nước gừng) một cân, hoàng minh giao 4 lạng, đun nóng thành thư cao lỏng, phết đều lên vải rồi đổ vào chỗ bệnh, một tuần thay một lần để chữa bệnh thân thể bị cảm lạnh sinh ra đau nhức, hoặc hàn khí ngưng tụ trong mạch máu, chân tay co quắp.

“Chứng trị chuẩn thằng” có bài hương khương tán gồm sinh khương 4 lạng, hoàng liên 2 lạng, ngâm nước một đêm, dùng lửa sao khiến cho khương có màu sắc tía, bỏ khương không dùng, tán nhỏ, mỗi lần dùng 2 tiền, dùng nước chè uống. Chữa bệnh bạch lỵ, dùng nước cơm hoặc rượu uống để chữa thần tiết (sáng sớm đi ia lỏng), bệnh bạch lỵ (bệnh lỵ ra mũi, mủ).

“Thương hàn truy pháp” trị bệnh ôn nhiệt phát hoàng. Dùng sinh khương ngày ngày sát toàn thân, thi màu vàng sẽ sẽ biến hết.

“Càn khốn sinh ý” trị thắt lưng đau (yêu thống). Dùng hương phụ tử 5 lạng, sinh khương 2 lạng, lấy nước tẩm một đêm, sao vàng tán nhỏ, muối xanh 2 đồng sát vào răng vài lần thi khỏi đau.

“Kim quỹ yếu lược” có bài quế chi, sinh khương, chỉ thực thang gồm quế chi, sinh khương mỗi thứ 3 lạng, chỉ thực 5 lạng, dùng nước đun, chia làm 3 lần uống, trị trong lòng bị các bệnh nghịch, bênh tâm huyền thống.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*