NHŨ HƯƠNG CÙNG MỘT DƯỢC
Công hiệu khác nhau.
Nhũ hương cùng một dược, đều có khả năng hoạt huyết hành khí, tiêu thũng, sinh cơ, tán ứ chỉ thống; bên trong dùng thông các tạng phủ, ngoài lưu thông kinh lạc. Đối với các bệnh tâm, vị hiếp, phúc, chi, thể đau nhức, cho đến các chứng thống kinh, hậu sản đau bụng, đều phải dùng đến nho hương, một dược cả.
Nhưng nhũ hương thơm, cay, chạy khắp cả, ôn nên thông. Công dụng thiên về điều khí, thông khí, hóa trệ, so với một dược thì sức mạnh nhiều.
Một dược đắng, bình, công dụng nặng về huyết, phá ứ lại mạnh hơn nhũ hương, vả lại hay tán can kinh huyết nhiệt.
Chủ trị khác nhau.
1 – Một dược chủ huyết ứ, kinh bế. Dùng chữa huyết ứ, kinh bế, bụng đau, mụn nhọt.
Như “Phổ tế phương” trị chứng kinh bế của phụ nữ. Dùng một dược phối hợp với đương quy mỗi vị một đồng, tán mạt, hồng hoa tẩm rượu, uống mỗi ngày một lần.
“Bác tế phương” bài một dược tán (một dược, hồng hoa, huyền hồ sách, đương quy, các vị bằng nhau, tán nhỏ trị chứng phụ nhân huyết ứ đau bụng.
“Kim quỹ câu huyền” trị mụn nhọt, tiêu huyết khối – Dùng một dược một đồng, phơi với hoạt thạch 2 đồng tán mạt, cho dấm và hồ làm hoàn, uống vào mồm.
Nhũ hương hoạt huyết, hành khí, chỉ thống cũng dùng chữa huyết ứ, kinh bế, bụng đau mụn nhọt các chứng. Thường dùng với một dược cùng phối hợp dùng. Nhưng nhũ hương thiên về điều khí, hành khí, chỉ thống, cũng dùng chữa khí hàn trở trệ gây tâm, phúc đau nhức.
Như “Thụy trúc đường kinh nghiệm phương” trị chứng tâm khí đau đớn không chịu được. Dùng ngay nhũ hương 2 lạng, chần trà 4 lạng, tán mạt, lấy máu hươu tháng chạp trộn làm hoàn, viên to bằng hòn đàn lớn, mỗi lần dùng dấm điều trị một hoàn.
“Nhiếp sinh chứng diệu phương” trị bệnh đau tim cấp tính. Dùng hồ tiêu 40 hạt, nhũ hương 1 đồng tán nhỏ, đàn ông dùng gừng làm thang, đàn bà dùng đương quy làm thang uống ngay.
2 – Một dược trị ứ trệ, thân thể, chân tay đau mỏi hoặc nhảy, ngã bị tổn thương. Nhũ hương chủ trị mồm, mắt bị méo, xếch.
Một được hoạt huyết, thông kinh, chỉ thống. Dùng chữa bệnh kinh lạc trở trệ, gây các chứng: thân thể đau nhức, bị đánh, bị ngã thành tổn thương.
Như “Chứng trị chuẩn thằng” Một được tán (một dược hai lạng, hổ cốt tẩm dấm trích 4 lạng – tán nhỏ) mỗi lần dùng năm đồng cân, uống với rượu, ngày hai lần, trị một bên người các đốt xương đau nhức “Thế y đắc hiệu phương” Một dược hoàn (một dược, nhũ hương, thược dược, xuyên khung, xuyên tiêu, đương quy, tự nhiên đồng) chữa bệnh ngã tổn thương bên trong, gân cốt đau nhức. Nhũ hương không những chữa thân thể chân tay đau nhức bị ngã, bị đánh tổn thương, mà vị cay thơm nên chạy khắp cơ thể để ôn tán, chữa các chứng: miệng, mắt méo xếch.
Như “Chứng trị yếu quyết” trị chứng mồm mắt méo xếch, dùng nhũ hương đốt hun, để lấy huyết mạch thuận chiều cũng để trừ phong, hoạt lạc.
3 – Một dược chữa ung thư. Nhũ hương thiên về chữa đầu thống.
Một dược tán ứ, tiêu thũng, chỉ thống, thích ứng dùng chữa ung thư, thường hay cùng dùng với nhũ hương.
Như “Dương y đại toàn” Hải phù thạch tán (nhũ hương, một dược bằng nhau) an nhược diệp thượng (lá cây trúc to thường dùng làm nón) dùng lửa trích bỏ đầu, hòa sữa bôi lên trên, dùng cao dán vào, trị chứng ung thư sang độc, làm tan cái cũ sinh ra cái mới.
Nhũ hương chẳng những dùng chữa ung thư, mà vị cay, thơm chạy khắp, ôn thông trên đạt tới đỉnh đầu. Cho nên huyết khí tử trệ sinh chứng chính đỉnh đầu đau.
Như “Thánh tễ tổng lục” trị hung thống, vị thống. Dùng nhũ hương 1 đồng, phối cốc tinh thảo 2 đồng, địa long 3 đồng tán mạt, đốt trong ống tre, rồi tùy theo hun vào mũi trái hoặc mũi phải.
“Phổ tế phương” Long hương tán (địa long, nhũ hương tán mạt) mỗi lần lấy một ít cuốn vào giấy, đốt giấy làm khói xông vào mũi ngửi.
4 – Một dược trị can nhiệt ứ, bệnh mắt. Nhũ hương chủ hàn ách, hoạt tiết.
Can khai tân cũng là mắt. Một dược khô, bình, tiết nhiệt, lại hay tán ứ, nên dùng chữa can nhiệt huyết ứ, bệnh mắt.
Như “Ngân hài tinh vi” Một dược tán (một được, đại hoàng, phác tiêu) mỗi lần dùng 3 đồng uống với rượu hay nước chè cũng được. Trị chứng lậu nhãn, nùng huyết.
“Nhãn khoa long mộc luận” một dược tán (một dược, huyết kiệt, đại hoàng, mang tiêu) sau khi ăn, uống với nước chè 1 đồng cân. Trị bệnh huyết nùng che con ngươi, ngoài trương lên đau nhức.
Nhũ hương ôn thì thông, thơm thì táo. Cho nên dùng chữa chứng âm hàn ách nghịch đến các hoạt tiết. Như “Thương hàn toàn sinh tập” bài nhũ hương lưu hoàng tán (nhũ hương, lưu hoàng, ngải, mỗi vị 2 đồng, tán mạt) dùng rượu ngon một chung, đun sôi vài dạo khí nóng bốc lên làm cho bệnh nhân ngửi thấy.
“Thế y đắc hiệu phương” – Bài nhũ đậu hoàn (nhũ hương, nhục đậu khấu, trước hết lấy nhũ hương tẩm rượu nghiền thành cao, hòa nhục đậu khấu giã tán mạt, hoàn to bằng hột ngô. Mỗi lần uống 50 viên, uống lúc đói với nước cơm, để chữa chứng tiết hạ không dứt.
Đặc thù sử dụng khác nhau.
“Chứng trị yết quyết” chữa bệnh mồm, mắt méo xếch, dùng nhũ hương đốt xông, để lấy lại huyết mạch thuận.
“Ấu khoa phát huy” câu đằng cao: nhũ hương, một dược, mộc hương, cương tàm tán mạt làm viên mà điều trị, câu đằng đun nước làm thang uống. Trị tiểu nhị nội điếu thổ thống.
“Ngoại khoa chân thuyên”- Tiêu thũng tán (nhũ hương, bạch cập, mẫu đơn bì, mỗi vị một đồng, băng phiến 2 phân, đều tán nhỏ, lấy mỡ dê đổ vào chỗ đau. Trị dã hỏa đan, thấy hai bên đùi mọc lên đỏ, sưng, rất đau, như lửa đốt.
“Y lâm tập yếu” trị mộng mị, di tinh. Nhũ hương một cục bằng ngón tay cái, nằm nhai dần, ngậm đến canh ba thì nuốt đi, làm như thế từ 3 đến 5 lần thì khỏi.
“Đô kinh bản thảo” trị phụ nhân huyết vận dùng một dược tán mạt 1 đồng uống với rượu tiện chỉ.
Để lại một phản hồi