MẠCH MÔN ĐÔNG CÙNG THIÊN MÔN ĐÔNG
Công hiệu khác nhau
Mạch môn đông và thiên môn đông đều dưỡng âm, thanh phế nhuận táo, chỉ khái. Nhưng mạch môn đông vi hàn, tư âm, nhuận táo so với Thiên môn đông thì kém – Công dụng thiên về ích tỳ, sinh tân, thanh tâm, trừ phiền hà, thiên môn đông đại hàn, nhiều nước, tư âm nhuận táo lực mạnh hơn mạch môn động. Công dụng thiên về tư thận, tráng thủy, thanh phế giảng hỏa, kiêm hóa đàm nhiệt.
Chủ trị khác nhau
Mạch môn động chủ táo khái
Thiên môn đông chủ phế nhiệt, họ suyễn, hầu đau, phế nuy.
Mạch môn đông dưỡng âm nhuận táo, thanh phế chỉ khái. Dùng chữa âm hư sinh ra ho khan, đến lao thấu – Như “Trương Thị y thông” Nhị đồng cao (thiên môn đông, mạch môn đông) trị phế vị táo nhiệt, đàm sáp khái thấu. Nguyệt hoa hoàn trị lao thấu. Tức dùng mạch môn đông, sinh địa, sa sâm, xuyên bối thiên môn đông chẳng những dùng chữa táo khái, lao thấu mà còn thanh phế, giáng hỏa, hóa đàm nhiệt, cũng dùng chữa ho suyễn, đến yết hầu đau, sưng. Phế nhiệt dẫn đến phế nuy.
Như “Chính trị chuẩn chàng” Thiên môn đông hoàn (thiên môn, bách hợp) tiền hồ, bối mẫu, bán hạ, quế ngạnh, tang hạch bì, phòng kỷ, tử uyển, sinh phục linh, can địa hoàng, hạnh nhân. Trị phế nhiệt ủng uất, dùng thiên môn, bản lan căn, quế ngạnh, sơn đậu căn, cam thảo.
“Y học chính truyền” Thiên môn đông cao. Trị phế nuy khái nùng huyết chứng.
2 – Mạch môn đông chủ phế vị, tân dịch tổn thương, khâu khát.
Thiên môn đông trị vị hư tiêu khái, thất tinh – Mạch môn đông công thiên ích vị, sinh tân, kiêm nhuận phế. Cho nên chủ trị phế, vị, tân thương, miệng khát, thường dùng với ngọc trúc, hoa phấn, thạch hộc.
Nếu như thuộc khí âm lưỡng hư, lại phối hợp với các thuốc bổ khí.
Như “Bất củ tập” Mạch đông ẩm tử (mạch môn đông, hoàng kỳ, nhân sâm, đương quy, sinh địa hoàng, ngũ vị tử) trị nội thương lao dịch, tinh thần hao tán, vị khí không thăng đề được, hoặc huyết hậu vong dịch trở thành miệng khát.
Thiên môn đông đại hàn nhiều nước, tư thận, tráng thủy, nhuận táo, dùng chữa thận âm hư gây nên các chứng bệnh, tiêu khát, hỏa vượng, di tinh.
Chữa chứng tiêu khát dùng phối với sinh địa, huyền sâm, thạch hộc, hoàng tinh, sơn thù du.
Chữa hư hỏa thượng viêm, mộng, di, thất tinh, thường dùng với thục địa hoàng, nhân sâm, hoàng bá, sa nhân, trích cam thảo. Như “Vệ sinh bảo giám” Tâm tài phong tùy đan.
3 – Mạch môn đông chủ trị nhiệt tà vào doanh
Thiên môn đông chủ trị trúng phong.
Mạch môn đông ngọt, hàn, thanh tâm trừ phiền, chủ ôn tà vào doanh, thần hôn, nói nang lảm nhảm, không ngủ, tâm phiền. Như “Ôn bệnh điều biện” Thanh cung thang (huyền sâm tâm, liên tử tâm, trúc diệp, quyển tâm, liên kiều tâm, tô giác tiêm, mạch môn đông liên tâm) Trị chứng tà hãm ở tâm bào, tân dịch đã bị thương tổn. Thần hôn, nói năng lảm nhảm. Thanh doanh thang. Trị ôn tà truyền doanh, toàn thân sốt nóng, phiền, khát chốc chốc lại nói nhảm, phiền táo không ngủ được lưỡi đỏ mà khô, mạch tế mà xác, dùng mạch môn đông phối hợp với đan bì, huyền sâm, sinh địa.
Thiên môn đông tráng thủy, chế hỏa, tư thủy hàm mộc (đã tư thủy thận ắt bồi dưỡng được can mộc) cho nên chữa được âm hư phong động.
Như “Y học trung trung tham Tây lục” Bài chấn can tức phong thang Trị các chứng: bên trong trúng phong váng đầu, chóng mặt, choáng váng, mặt đỏ, mồm mắt méo, lệch, bán thân bất toại, mạch huyền, trường, hữu lực, dùng thiên môn đông, huyền sâm, đại giả thạch, sinh long mẫu, quy bản.
4 – Mạch môn đông chủ tràng táo, tiện bí
Thiên môn đông chủ thổ, nục huyết.
Mạch môn đông tư vị, sinh tân, nhuận táo, dùng chữa. Tràng táo. tiện bí. Thường dùng cùng sinh địa, huyền sâm. Như “ôn bệnh điều biện” Tăng dịch thang Thiên môn đông tráng thủy, chế hòa, lại hay thanh phù giảng hỏa, dùng chữa táo, nhiệt, động huyết, thổ huyết, nục huyết. Như “Bát cư tập”. Thiên môn đông hoàn (thiên môn đông, cam thảo, hạnh nhân, bối mẫu, phục linh, a giao) trị thổ huyết, nục huyết.
Đặc thù sử dụng khác nhau.
Mạch môn đông sinh mạch, bảo thần. Như “Ôn bệnh điều biện” Trị chứng thử ôn ở kinh thủ thái âm nhiều mồ hôi, mạch tán đại, suyễn, khát, muốn thoát. Dùng ngay nhân sâm, mạch môn đông, ngũ vị tử. “Phổ tế phương” bài tâm thận hoàn. Trị thùy hóa bất tế, tâm hạ, thần kinh suy nhược, âu sầu buồn bã. Đêm ra nhiều mồ hôi trộm, nước đái đỏ, mộng di tinh, dùng thỏ ty tử, mạch môn đông
Lâm sàng báo: Mỗi ngày dùng thiên môn đông 2 lạng, tước bỏ vỏ, chưng cách thủy chín, chia làm 3 để liều uống, cũng chế thành phiến để điều uống bên trong. Trị chứng bầu vú bị bệnh ung nhọt. Đã có lần bênh nhân bị bầu vú sưng đau, có nhọt to, (không kể đã thành khối to hay nhỏ) chữa thấy hiệu quả nhanh chóng, đại đa số là khỏi hẳn.
“Vân Nam Trang thảo dược” Thôi nhủ: Dùng thiên môn đông hai lạng, trị chứng sán khí lấy thiên môn đông từ 5 đồng đến 1 lạng (bỏ vỏ) sắc nước uống với rượu đế dẫn thuốc vào trong.
“Ngoại đài bí yếu” Trị chứng phong điến làm cho thổ, nôn mửa, tai như ve kêu, rồi sinh đau đớn – thiên môn đông bỏ vỏ, ruột, dã nát, uống với một thìa rượu, ngày 3 lần, dùng lâu ắt khỏi bệnh.
Lâm sàng báo: Sinh thiên môn có khả năng chữa được bệnh tử cung ra máu. Dã qua 60 người đến chữa hiện đã xem xét, hiệu quả mười phần nữ man. Phương pháp dùng như sau: sinh thiên môn để nguyên cả vỏ từ 5 đồng đến 1 lạng (có thể từ 1 lạng, đến 3 lạng) cho vào nồi đun, khi được rồi thì cho đường đỏ vào. Mỗi ngày một lần uống. (Sinh cước y sinh Tạp chí 1975)
Để lại một phản hồi