Chỉ thực và Chỉ xác là hai loại dược liệu thường được sử dụng để điều trị bệnh trong Đông y. Đặc biệt, vị thuốc có khả năng lợi tiêu hóa, tiêu đờm, lợi tiểu rất hiệu quả.
Giới thiệu về Chỉ xác, Chỉ thực
Chỉ thực còn có tên gọi khác như: Trấp, Chấp, Kim quất, Khổ chanh, Chỉ thiệt, Phá hông chùy, Chùy hông phích lịch…. Có tên khoa học là Fructus aurantii Immaturi/ Fructus ponciri Immaturi.
Chỉ xác, hay tên gọi khác gồm: Nô lệ, Thương xác, Đổng đình nô lệ… Với tên khoa học là Fructus citri Aurantii.
Họ khoa học của cả hai đều là họ Cam (Rutaceae)
Chỉ Thực và Chỉ Xác đều là quả phơi khô từ hơn 10 cây thuộc chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam (Rutaceae). Theo Dược điển Trung Quốc 1997 (bản in tiếng Anh), cả hai vị thuốc đều lấy từ loài Citrus aurantium L.
Thu hái tại các thời điểm khác nhau ta sẽ được các sản phẩm khác nhau. Chỉ thực là quả hái còn non nhỏ, Chỉ xác là quả hái lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn Chỉ thực.
Đặc điểm sinh trưởng và thu hái
Đây là loài có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Ấn Độ – Malaysia, sau lan rộng ra nhiều nước Đông Nam Á khác, trong đó có Việt Nam và cả ở Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây được trồng và còn thấy mọc hoang dại ở một số tỉnh miền Bắc gồm: Thanh Hóa, Cao Lạng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Bắc…
Chỉ thuộc loại cây gỗ nhỏ ưa ẩm và ưa sáng. Rụng lá mùa đông, ra lá non và hoa vào giữa mùa xuân. Tuy nhiên mức độ đa dạng và vùng trồng của cây kém phong phú hơn các loại cam, chanh, quít, bưởi.
Chỉ thực
Thu hái vào tháng 4 đến tháng 6 lúc trời khô ráo. Thu nhặt những quả non còn xanh rụng dưới gốc cây sẽ được dược liệu. Quả nhỏ có vỏ dày, bên trong quả là phần thịt dày đặc, chắc, nhỏ ruột không bị mốc hoặc mọt là tốt. Thứ to nhiều ruột là xấu. Dùng quả có đường kính dưới 1cm thì để nguyên, quả có đường kính trên 1cm thì bổ đôi theo chiều ngang. Khi dùng rửa sạch đất bụi, ủ mềm, cắt lát hay bào mỏng, sao giòn.
Chỉ xác
Thu hái vào tháng 9, tháng 10 hàng năm. Hái những quả gần chín, rửa sạch và phơi khô lúc trời khô ráo. Hoặc hái những quả xanh có đường kính từ 3-5cm, rồi rửa sạch, bổ ngang làm đôi và phơi khô.
Mô tả toàn cây
Cây gỗ nhỏ, cao 2-10m. Thân nhẵn, không gai hoặc có gai ngắn, thẳng.
Lá mọc so le, hình trái xoan, phiến dai, gốc tròn, đầu tù có khi lõm, hơi có răng ở gần đầu lá. Cuống có cánh rộng, có khi to bằng phiến lá, hai mặt nhẵn, mặt trên bóng.
Cụm hoa là một chùm mọc ở kẽ lá, gồm 6-8 hoa nhỏ, màu trắng hoặc màu vàng nhạt, có 5 lá dài, 5 cánh hoa, 20 nhị.
Quả hình cầu hoặc hình trứng, có núm, vỏ ngoài sần sùi, khi chín màu vàng nhạt, ruột màu vàng lục, rất chua.
Mùa hoa: tháng 2-4, mùa quả: tháng 5-8.
Bào chế Chỉ thực và Chỉ xác
Bào chế chỉ thực
Sau khi thu hái, mang dược liệu rửa sạch với nước muối, loại bỏ đất bụi, ủ mềm rồi bào mỏng hoặc thái lát và sao giòn.
Hoặc thấm nước cho mềm, loại bỏ các múi và hạt ở trong rồi xắc nhỏ phơi khô sao với gạo nếp hoặc cám, có khi sao cháy tồn tính rồi tán bột.
Vị thuốc sao cám: Cho cám vào chảo, đun đến khi bốc khói. Cho dược liệu đã thái lát vào, sao đến khi bề mặt thuốc chuyển sang màu vàng hay thẫm đều. Lấy ra loại bỏ cám và để nguội. Dùng 1 kg cám cho 10 kg dược liệu.
Bào chế chỉ xác
Sau khi thu hái mang dược liệu thấm vào nước cho mềm. Dùng dao bổ đôi, bỏ xác múi và hạt ở bên trong. Sau đó thái mỏng, phơi khô, trộn với nếp hoặc cám và sao cho đến khi cám gần cháy đen hoặc gạo vàng thì bỏ đi, lấy Chỉ xác. Chỉ xác càng để lâu càng mang hiệu quả chữa bệnh cao.
Mô tả dược liệu
Mô tả dược liệu Chỉ thực
- Gồm các quả nguyên hình cầu và quả bổ đôi hình bán cầu.
- Quả nguyên đường kính 0,5-1 cm. Vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụng.
- Mặt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng, màu nâu, một túi tinh dầu, một lớp cùi màu ngà vàng hoặc vàng nâu nhạt, hơi lồi lên. Giữa là ruột màu đen nâu, có những múi hình tia nan hoa bánh xe.
- Chất cứng chắc, vị đắng mát, mùi thơm nhẹ.
Mô tả dược liệu Chỉ xác
- Gồm các quả bổ đôi, đường kính 3-4 cm (hoặc bổ tư) đã phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp 40-50°C.
- Vỏ ngoài có màu nâu vàng, có vết tích của cuống quả hoặc vết tích của vòi nhụy. Mặt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng màu nâu, sát vỏ có một vòng túi tinh dầu, lớp cùi trắng ngà, dày khoảng 3-4 mm, giữa là ruột màu nâu nhạt.
- Có các múi hình tía nan hoa bánh xe, khô xốp có lỏi cứng.
- Chất cứng chắc, mùi thơm nhạt, vị đắng cay. Ruột hơi chua chát (so sánh với: Chỉ thực).
Bảo quản
Dược liệu nếu quả trải qua sơ chế cần để nơi khô ráo, thông thoáng, tránh ánh sáng trực tiếp, tránh mối mọt.
Ngoài Chỉ thực và Chỉ xác, Kê nội kim cũng là dược liệu lợi tiêu hóa hiệu quả: Kê nội kim: Dũng sĩ hỗ trợ tiêu hóa
Thành phần hóa học và tác dụng
Thành phần hóa học
Cả Chỉ thực và Chỉ xác gồm các thành phần chủ yếu sau:
Theo R. F. Albach và cộng sự, Phytochemistry 1969, 8 (1) : 127
- Hesperidin
- Neohesperidin
- Naringin.
Theo Hà Triều Thanh, Trung Dược Chí 1981, 12 (8) : 345
- Synephrine
- N-Methyltyramine
Theo Nobile Luciano và cộng sự, C A 1969, 70 : 31620b. Vỏ dược liệu chứa 0,469% chất dầu. Trong chất dầu chứa:
- Pinene
- Limonene
- Camphene, (-Terpinene, Caryophyllen, p-Cymene).
Ngoài ra, dược liệu còn chứa chất Glucozit hoạt động như vitamin P (theo Trung Dược Học).
Tác dụng Y học hiện đại
Tăng cường tim mạch, huyết áp: do thành phần chủ yếu là Neohesperidin nhưng không làm tăng nhịp tim. Thuốc có tác dụng co mạch, tăng lực cản của tuần hoàn ngoại vi, tăng co bóp của cơ tim, tăng lượng cGMP của cơ tim và huyết tương nơi chuột nhắt. Chỉ thực còn có tác dụng tăng lưu lượng máu của động mạch vành, não và thận, nhưng máu của động mạch đùi lại giảm (Trung Dược Học).
Hỗ trợ rối loạn tiêu hóa: Kết quả thực nghiệm cho thấy Chỉ thực và Chỉ xác vừa có tác dụng làm giảm trương lực cơ trơn của ruột và chống co thắt, vừa có thể hưng phấn làm tăng nhu động ruột, do trạng thái chức năng cơ thể, nồng độ thuốc và súc vật thực nghiệm khác nhau mà có tác dụng cả hai mặt ngược nhau, như vậy dùng thuốc để điều chỉnh sự rối loạn chức năng đường tiêu hóa ở trạng thái bệnh lý là tốt (Trung Dược Học).
Chỉ thực có tác dụng lợi tiểu, chống dị ứng. Chất Glucozit của Chỉ thực có tác dụng như Vitamin P làm giảm tính thẩm thấu của mao mạch (Trung Dược Học).
Tác dụng Y học cổ truyền
Tính vị:
- Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).
- Vị chua, hơi hàn, không độc (Biệt Lục).
- Vị đắng, cay (Dược Tính Bản Thảo).
- Vị đắng, tính hơi hàn (Trung Dược Học).
- Vị đắng, tính hơi lạnh. (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
- Vị, Tỳ (Bản Thảo Kinh Sơ).
- Tâm Tỳ (Lôi Công Bào Chế Dược tính Giải).
- Can, Tỳ (Bản Thảo Tái Tân).
- Tỳ, Vị (Trung Dược Học).
- Tỳ, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng: Tiêu tích trệ, hành khí trệ, thông trường vị, trừ đờm, hỗ trợ ăn uống dễ tiêu, đầy hơi (sao giòn), cầm máu (sao tồn tính), thông tiện bí, an thần…
Cách dùng và liều dùng
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và từng bài thuốc mà có thể dùng dược liệu với nhiều cách khác nhau. Dùng tươi hoặc phơi khô sắc lấy nước uống, tán thành bột mịn, nấu thành cao hoặc kết hợp với hợp với những vị thuốc khác để chữa bệnh.
Liều dùng: Ngày 6–12g, có thể hơn, dưới dạng thuốc sắc bay ngâm rượu.
Kiêng kỵ
Dị ứng với bất kỳ thành phần của dược liệu.
Phụ nữ đang mang thai.
Người có cơ thể gầy yếu, Tỳ vị hư yếu.
Khi Chỉ thực kết hợp với Nga truật, Thanh bì, Tam lăng, Bình lang có tác dụng làm mòn tiêu tích khối cứng chắc. Tuy nhiên sự phối hợp này chỉ phù hợp với những người có Tỳ Vị mạnh, có sức khỏe cao và còn ăn được (theo Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).
Một số bài thuốc kinh nghiệm
Hỗ trợ đại tiện không thông, bụng đầy trướng
Chỉ xác, Bồ kết, lượng bằng nhau. Hai vị phơi khô, tán nhỏ làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Hoặc Chỉ xác, Mộc thông, mỗi vị 8 g sắc uống.
Hoặc Chỉ thực 20 g, Bạch truật 6 g. Sắc chia 3 lần uống mỗi ngày: “Chỉ truật thang” (Trương Trọng Cảnh).
Hoặc Chỉ thực, Bạch truật, Phục linh, Thần khúc, Trạch tả, Đại hoàng mỗi thứ 12 g, Hoàng liên 4 g, Sinh khương 8 g, Hoàng cầm 8 g. Tán bột làm viên hoặc sắc uống (Chỉ trực đạo trệ hoàn).
Giảm đau nhức răng
Chỉ xác đã phơi khô cho vào bình thủy tinh có nắp đậy. Rót rượu đến khi ngập phần dược liệu. Đậy kín nắp và ngâm trong 2 ngày. Khi cần lấy 50 ml rượu thuốc súc miệng. Sử dụng 2 lần/ngày cho đến khi triệu chứng đau nhức răng giảm hẳn. (Thánh Huệ Phương).
Điều trị xương sườn đau nhức, tổn thương tới khí do lo sợ
Chỉ xác (sao) 40 g, Đào chi (sống) 20 g, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Gừng và Táo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Hoặc Chỉ xác 10 g, Nhục quế 10g rửa sạch với nước muối. Cho hai vị thuốc vào nồi và sắc cùng với 600 ml nước lọc trong 20 phút hoặc cho đến khi lượng nước thuốc trong nồi chỉ còn lại 200 ml. Chắt lấy phần nước và uống ngay khi còn ấm. Sử dụng 1–2 lần/ngày. (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Hoặc Chỉ thực tán bột uống với nước lần 12g, ngày 3 lần, đêm 1 lần (Trửu Hậu Phương).
Trị ngứa do phong chẩn
Chỉ xác, Kinh giới, Khổ sâm, Phòng phong, Thương nhĩ thảo, Bại bồ, nấu nước tắm gội (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Hoặc Chỉ thực tẩm giấm, sao, chườm vào (Ngoại Đài Bí Yếu).
Để lại một phản hồi