1. Đại cương về bại não
1.1. Khái niệm
Bại não là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các rối loạn thần kinh trung ương ảnh hưởng đến sự kiểm soát vận động, tư thế, giác quan, tâm thần và hành vi, gây nên do tổn thương não không tiến triển xảy ra vào giai đoạn trước, trong và sau khi sinh cho đến 2 tuổi.
Tần xuất: Bại não thường ít khi được chẩn đoán sớm trước 2 tuổi. Với lứa tuổi trên 3 thì tần suất bại não vào khoảng 2-3 trường hợp/1000 trẻ. Đây là một tỷ lệ khá cao đối với một bệnh mạn tính, ngay cả ở Mỹ cũng có trên nửa triệu bệnh nhân bại não.
Trẻ bại não bị khiếm khuyết nhiều chức năng khác nhau tùy thuộc mức độ tổn thương của não, trong đó hai chức năng bị tổn thương nhiều nhất là khả năng vận động và khả năng giao tiếp xã hội.
– Rối loạn vận động thường gặp là:
+ Co cứng: Tình trạng co cứng có thể ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng, co cứng các cơ gấp ở tứ chi, co cứng cả các cơ thân mình gây cho trẻ tư thế vặn vẹo, thường do tổn thương ở hồi trán lên.
+ Múa vờn: thường do tổn thương các nhân vùng nền não, đó là các động tác bất thường không chủ động của tay, các ngón tay, chân, có thể cả thân mình.
+ Thất điều: mất điều hòa vận động làm dáng đi bất thường, khó thực hiện các động tác phức tạp cần có sự phối hợp nhiều nhóm cơ.
+ Phối hợp các loại trên ở cùng một trẻ.
– Giảm khả năng giao tiếp biểu hiện:
+ Chậm phát triển trí tuệ: tùy mức độ có thể nhẹ đến nặng.
+ Rối loạn ngôn ngữ bao gồm cả thất ngôn vận động (khó diễn đạt), thất ngôn tiếp nhận (khó hoặc không hiểu lời), khó phát âm.
+ Có thể có rối loạn về nghe hoặc nhìn.
+ Giảm khả năng giao tiếp với bạn bè, người thân hoặc người khác trong cộng đồng.
1.2. Vài nét lịch sử
Vào năm 1860, William Little, một phẫu thuật viên chỉnh hình người Anh đã cho xuất bản những bài báo đầu tiên về một rối loạn khó hiểu ảnh hưởng đến trẻ em trong những năm đầu đời gây nên co cứng rõ các cơ ở chân và ở tay nhưng mức độ nhẹ hơn. Những đứa trẻ này có khó khăn trong cầm nắm đồ vật, bò và đi lại. Những rối loạn này không cải thiện khi trẻ lớn lên nhưng cũng không nặng nề hơn. Tình trạng này trong nhiều năm đầu tiên được gọi là bệnh Little. Những đứa trẻ này dường như sinh non hoặc do biến chứng trong quá trình sinh nở nên Little đưa ra giả thiết là chứng bệnh này là hậu quả của tình trạng thiếu ôxy nãotrong lúc sinh. Ông cho rằng sự thiếu ôxy đã làm tổn thương những vùng não nhạy cảm có chức năng kiểm soát vận động.
Tuy nhiên vào năm 1897, nhà tâm lý học người Áo Sigmund Freund đã không tán thành giả thiết này. Do quan sát thấy những trẻ này có các rối loạn khác như chậm phát triển tinh thần, rối loạn thị lực và động kinh nên Freund cho rằng rối loạn này có thể bắt nguồn từ rất sớm trong quá trình phát triển của não bộ khi trẻ còn đang trong giai đoạn bào thai. Mặc dù có những quan sát và nhận định tinh tế của Freund, cho mãi đến gần đây rất nhiều thầy thuốc, gia đình thậm chí cả các nhà nghiên cứu vẫn tin tưởng là thiếu ôxy não là nguyên nhân bại não.
Tuy nhiên vào thập niên 1980 nhờ vào những nghiên cứu quy mô lớn và với những phương pháp mới, các nhà khoa học nhận định chắc chắn rằng biến chứng của sinh khó chỉ chiếm 10% tổng số các trường hợp bại não. Trong phần lớn các trường hợp bại não, người ta vẫn chưa thể xác định được nguyên nhân. Các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành.
1.3. Nguyên nhân của bại não
Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh trong thời kỳ phát triển của bào thai làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Theo báo cáo năm 2003 của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologists – ACOG) và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics – AAP) thì thiếu ôxy trong quá trình sinh đẻ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các trường hợp bại não. Mặc dù nhiều trường hợp người ta chưa thể xác định được căn nguyên nhưng các nguyên nhân đã được biết của bại não bao gồm:
1.3.1. Nguyên nhân trước sinh
– Nhiễm trùng trong thai kỳ
Các nhiễm trùng ở phụ nữ có thai như nhiễm rubella (sởi Đức), cytomegalovirus và toxoplasmosis có thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này.
Các nhiễm trùng khác như nhiễm trùng ối, nhiễm trùng hệ tiết niệu – sinh dục của người mẹ cũng có thể gây nên sinh non, một nguy cơ khác của bại não.
– Thiếu oxy não bào thai
Khi chức năng của nhau thai bị giảm sút (suy nhau thai) hoặc bị bóc tách khỏi thành tử cung trước khi sinh (nhau bong non) hoặc do chảy máu do bám sai lệch vị trí (nhau tiền đạo) có thể làm giảm lượng ôxy cung cấp cho thai nhi.
– Các bất thường bẩm sinh khác
Các trẻ có bất thường cấu trúc hệ thần kinh, nhiều bệnh di truyền khác cũng làm tăng nguy cơ bại não.
– Mẹ bị bệnh: đái tháo đường, nhiễm độc thai nghén.
– Di truyền: yếu tố gia đình.
– Vô căn: 30% trẻ bại não không tìm thấy nguyên nhân.
1.3.2. Nguyên nhân trong khi sinh
– Sinh non
Sinh non là trẻ sinh ra trước 37 tuần thai tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng trước khi có thai. Những trẻ sinh non đặc biệt trước 32 tuần và nhất là trước 28 tuần thai có nguy cơ bại não rất cao. Một nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh non có cân nặng lúc sinh thấp hơn 1500 gram có nguy cơ bại não cao gấp 30 lần so với trẻ sinh đủ tháng (trẻ sinh từ 37 đến 42 tuần thai). Lý do là trẻ sinh non có nguy cơ rất cao bị xuất huyết não gây tổn thương các tổ chức mong manh đang phát triển của não hoặc gây nên chứng nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất.
– Ngạt trong quá trình chuyển dạ và sinh nở
Cho mãi đến gần đây người ta vẫn còn tin tưởng rộng rãi là ngạt (thiếu ôxy) trong quá trình chuyển dạ và sinh nở là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp bại não. Tuy nhiên như trên đã nói, theo nghiên cứu của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ thì ngạt chỉ chiếm 10% trong tổng số các bệnh nhân bại não.
– Sang chấn sản khoa
1.3.3. Nguyên nhân sau sinh
– Các bệnh máu
Bất đồng nhóm máu Rh là sự bất tương hợp nhóm máu giữa mẹ và bào thai gây nên vàng da trầm trọng và tổn thương não dẫn đến bại não. Bệnh này thường gặp ở người da trắng còn ở Việt Nam rất hiếm gặp vì tỷ lệ mang Rh (-) hiếm gặp. Tuy nhiên ở Việt Nam có thể gặp bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và thai nhi.
Một bệnh khác rất nặng nề mặc dù biện pháp phòng ngừa cực kỳ đơn giản là xuất huyết não do thiếu Vitamin K ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi cũng gây nên bại não. Các bệnh rối loạn chức năng đông máu khác cũng có thể là nguyên nhân của bại não vì làm tăng nguy cơ chảy máu trong não.
– Vàng da nhân
Vàng da trẻ sơ sinh là do sự tích tụ trong máu một loại sắc tố có tên billirubin do tốc độ phá hủy hồng cầucao và chức năng gan chưa trưởng thành ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Trong trường hợp nặng, sắc tố này có thể vượt qua hàng rào mạch máu – não và lắng đọng chủ yếu ở các nhân nền của não (do đó có tên là vàng da nhân) và làm tổn thương các cấu trúc này đưa đến thể bại não kèm múa vờn.
– Bại não mắc phải
Trẻ mắc các chứng bệnh gây tổn thương thần kinh trong hai năm đầu tiên của đời sống, ví dụ như viêm màng não mủ, viêm não, chấn thương sọ não.
1.4. Phân loại bại não
Bại não được chia thành 3 thể lâm sàng chính. Tuy nhiên trên một trẻ bại não có thể có nhiều hơn một thể bệnh kết hợp với nhau nên có thể thứ tư là thể phối hợp.
1.4.1 Bại não thể liệt cứng (spastic cerebral palsy)
Có khoảng 70 đến 80% bệnh nhân bại não thuộc nhóm này. Trẻ mắc thể này có biểu hiện các cơ co cứng, luôn ở trạng thái tăng trương lực cơ. Chính do tình trạng này mà sự vận động của bệnh nhân bại não rất khó khăn. Trẻ khó cầm nắm, bò hoặc đi. Thể lâm sàng này lại được chia làm ba phân nhóm nhỏ:
– Liệt cứng hai chi dưới (spastic diplegia):
Trẻ có bất thường co cứng rõ ở hai chi dưới. Do các cơ khép co cứng nên chân trẻ luôn bị kéo vào trong làm cho trẻ có dáng đi bắt chéo hai chân rất đặc trưng.
– Liệt cứng nửa người (spastic hemiplegia):
Thường có biểu hiện liệt cứng một bên (phải hoặc trái). Thường thì chi trên bị ảnh hưởng nặng hơn chi dưới.
– Liệt cứng tứ chi (spastic quadriplegia):
Bệnh nhân thuộc nhóm này có biểu hiện liệt cứng cả hai chi trên và hai chi dưới cùng với các cơ trục thân. Cả các cơ ở mặt cũng bị ảnh hưởng làm cho trẻ bị tàn phế rất nặng.
1.4.2. Bại não thể múa vờn hay loạn động (athetoid hay dyskinetic cerebral palsy)
Có khoảng 10 đến 20% bệnh nhân bại não thuộc vào nhóm này. Đây là thể bệnh được đặc trưng bằng sự thay đổi thất thường của trương lực cơ (lúc tăng, lúc giảm). Trẻ thường có các động tác bất thường không kiểm soát được. Các động tác này có nhịp điệu chậm, biên độ đôi khi rộng nhưng đang múa nhưng trẻ không ý thức được điều này.
Do bất thường trong kiểm soát cử động như vậy nên bệnh nhân khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Ngoài ra các cơ ở mặt và lưỡi cũng bị ảnh hưởng nên trẻ khó bú (với trẻ còn bú) hoặc khó nuốt, khó nói.
1.4.3. Bại não thể thất điều (ataxic cerebral palsy)
Khoảng 5 đến 10% bệnh nhân bại não thuộc thể lâm sàng này. Bệnh ảnh hưởng chủ yếu đến cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Do có rối loạn trong kiểm soát tư thế nên dáng đi của trẻ hay lảo đảo, vùng thắt lưng hay đong đưa. Do rối loạn khả năng phối hợp động tác nên trẻ rất khó thực hiện được các động tác đòi hỏi sự nhịp nhàng như vỗ tay theo nhịp hoặc đòi hỏi độ chính xác như viết.
1.4.4. Bại não thể phối hợp (Mixed cerebral palsy)
Trẻ bị thể phối hợp có thể bị phối hợp hai hoặc cả ba thể bại não trên, thường gặp phối hợp thể co cứng với thể múa vờn, những trường hợp này thường bị tàn tật nặng nề.
2. Lâm sàng và chẩn đoán
2.1. Hoàn cảnh phát hiện
Nếu trong thai kỳ, đặc biệt vào những tháng đầu tiên, mẹ bị các bệnh như cúm, sởi Đức (rubella), hoặc dùng một số thuốc có khả năng gây quái thai hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của ống thần kinh thì cần theo dõi đặc biệt.
Những trẻ có tiền sử sinh non, ngạt chu sinh cũng là những đối tượng có nguy cơ cao.
Tuy nhiên các bậc cha mẹ có thể theo dõi sự phát triển của con mình như lật, ngồi, bò, đi nếu có nghi ngờ bất thường thì cần đưa con đi khám bác sĩ chuyên khoa nhi ngay.
2.2. Khám lâm sàng
Mặc dù nguyên nhân bại não là do những sự kiện xảy ra trong thai kỳ và trong hai năm đầu đời sống, việc đánh giá và chẩn đoán bại não trước hai tuổi rất khó khăn.
– Khám trương lực cơ: Khám cơ lực đòi hỏi phải có chuyên môn sâu về thần kinh nhi khoa. Trương lực cơ có thể tăng hoặc giảm.
– Các phản xạ nguyên thủy: thường mất đi sau 6 tháng nhưng ở trẻ bại não thì các phản xạ này tồn tại lâu hơn.
– Trẻ nhỏ trước 12 tháng: thường không biểu hiện rõ thuận tay nào. Nhưng đối với trẻ bị bại não (nhất là thể liệt cứng nửa người) thì khuynh hướng thuận tay xuất hiện sớm (do bên liệt vận động khó, trẻ phải vận động bên lành).
– Đánh giá sự phát triển tâm thần vận động: thường có thể dựa vào các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn Amiel-Tison hoặc thang đánh giá Denver.
– Trẻ bại não thường có các dấu hiệu sớm sau đây:
+ Khi đẻ ra không khóc ngay hoặc khóc yếu, tím tái.
+ Sau khi sinh thường mềm nhẽo, không vận động.
+ Phát triển chậm hơn trẻ khác (chậm biết giữ đầu cổ, biết ngồi và đi).
+ Không biết cầm nắm bằng hai tay hoặc chỉ cầm bằng một tay.
+ Mút, bú khó khăn, hay sặc sữa.
+ Khó bế ẵm, tắm rửa, thay quần áo cho trẻ vì người trẻ cứng đờ.
+ Đầu rũ xuống, không ngẩng lên được.
+ Nghe khó, nhìn khó.
+ Khó khăn trong giao tiếp, không nhận biết mẹ hoặc những người thân.
+ Có thể bị động kinh (cơn co giật, bất tỉnh, sùi bọt mép).
+ Thay đổi tính cách bất thường (đột nhiên khóc, rồi lại cười, hay sợ hãi, co giật, tức giận).
+ Khả năng thăng bằng kém.
2.3. Xét nghiệm hỗ trợ
Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp vi tính (CT: Computerised Tomography) đặc biệt là chụp cộng hưởng từ (MRI: Magnetic Resonnance Imaging) cho biết những thông tin giá trị về tổn thương não.
Các xét nghiệm hóa sinh hay di truyền tùy theo hướng chẩn đoán trên lâm sàng.
Đo điện não đồ (EEG: Electro Encephalo Gram) cũng là một xét nghiệm cơ bản không thể thiếu trong chẩn đoán bại não cũng như các bệnh của hệ thần kinh trung ương khác.
2.4. Chẩn đoán
2.4.1. Dấu hiệu phát hiện sớm bại não khi 6 tháng tuổi
Một trẻ bị một vài yếu tố nguy cơ nói trên khi 6 tháng tuổi có
– Bốn dấu hiệu chính:
+ Trẻ có cơn co cứng hoặc/và chân duỗi cứng khi đặt đứng;
+ Trẻ không kiểm soát đầu cổ hoặc/và không biết lẫy hoặc/và nằm sấp
không ngẩng đầu.
+ Hai tay trẻ luôn nắm chặt.
+ Hai tay trẻ không biết với cầm đồ vật.
– Bốn dấu hiệu phụ:
+ Không nhận ra khuôn mặt mẹ.
+ Ăn uống khó khăn.
+ Không đáp ứng khi gọi hỏi.
+ Khóc nhiều suốt ngày đêm sau sinh.
– Một số dấu hiệu khác:
+ Mềm nhẽo sau sinh.
+ Không nhìn theo đồ vật.
+ Không quay đầu theo tiếng động.
+ Co giật.
2.4.2. Chẩn đoán thể bại não
2.4.2.1. B ại não thể co cứng
Có các dấu hiệu sau:
– Tăng trương lực cơ:
+ Khi làm vận động thụ động tại các khớp trẻ chống lại mạnh.
+ Các cơ cứng, gồng mạnh khiến trẻ vận động khó khăn.
– Giảm trương lực cơ:
Yếu các cơ nâng cổ, thân mình (đầu cổ gục, lưng cong), cơ gập mu bàn tay (bàn tay gập mặt lưng), cơ gập mu bàn chân (bàn chân thuổng)…
– Mẫu vận động bất thường:
+ Hay gập khuỷu, gập lưng bàn tay, khép vai, khép ngón cái, sấp cẳng tay,
bàn chân duỗi cứng, duỗi hoặc gập khớp gối mạnh.
+ Khi trẻ vận động chủ động thì tứ chi đều tham gia chuyển động thành
một khối (vận động khối).
– Các dấu hiệu khác: rung giật cơ (khi gập mu bàn chân nhanh thấy co giật cơ gân gót), co rút cơ (trẻ bị khép háng, gập gối, gập lưng bàn chân… mạnh).
2.4.2.2. Bại não thể múa vờn
Có các dấu hiệu sau:
– Trương lực cơ luôn thay đổi: người của trẻ lúc gồng cứng, lúc mềm, lúc bình thường.
– Vận động vô thức:
+ Thăng bằng đầu cổ kém: đầu lúc giữ thẳng lúc gục xuống, hoặc quay hai
bên liên tục.
+ Ngón tay, ngón chân cử động ngoằn ngoèo liên tục nên trẻ khó với cầm
đồ vật.
+ Môi, hàm vận động liên tục, lưỡi hay thè ra, có thể có rung giật các chi.
– Dấu hiệu khác: chảy nhiều nước rãi, có thể bị điếc ở tần số cao.
2.4.2.3. Bại não thể thất điều
Có các dấu hiệu sau:
– Trương lực cơ giảm toàn thân.
– Rối loạn điều phối vận động:
+ Kiểm soát thăng bằng đầu cổ, thân mình kém.
+ Hai tay vận động quá tầm, rối tầm, không thực hiện được động tác
tinh vi.
+ Thăng bằng khi ngồi, đứng, đi kém.
+ Đi lại như người say rượu.
2.4.2.4. Bại não thể phối hợp
Thường hay phối hợp bại não thể co cứng và múa vờn, có các dấu hiệu sau:
– Trương lực cơ thay đổi: trương lực cơ tứ chi lúc tăng mạnh lúc bình thường.
– Vận động vô thức: ngón tay – ngón chân cử động ngoằn ngoèo, miệng, lưỡi vận động liên tục, có thể có rung giật các chi giống bại não thể múa vờn.
– Vận động khối: toàn thân vận động khi trẻ muốn thực hiện một hoạt động
giống trẻ bại não thể co cứng.
2.4.2.5.Dấu hiệu chung cho tất cả các thể bại não
– Chậm phát triển vận động thô: chậm lẫy, ngồi, bò, quỳ, đứng, đi.
– Chậm phát triển vận động tinh: khiếm khuyết về sử dụng bàn tay trong cầm nắm và thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
– Chậm phát triển kỹ năng giao tiếp sớm (trong 12 tháng đầu).
+ Kỹ năng tập trung: không quay đầu đáp ứng với âm thanh, đồ chơi có màu
sắc, không nhìn vào mặt mẹ, người thân.
+ Kỹ năng bắt chước lần lượt: hóng chuyện, biểu lộ tình cảm, không quay
đầu theo tiếng động.
+ Kỹ năng chơi: không với cầm đồ vật, không phối hợp tay – mắt, không thích thú với trò chơi có tính xã hội.
+ Kỹ năng giao tiếp cử chỉ: không thể hiện nét mặt, không dùng mắt để thể hiện vui thích…
– Kỹ năng:
+ Chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ: kỹ năng hiểu ngôn ngữ, phát âm, dùng ngôn ngữ để giao tiếp…
+ Chậm phát triển trí tuệ: một số trẻ bại não nhẹ và vừa có khả năng đi học và tiếp thu bình thường. Trẻ bại não có khó khăn về nói, chậm tiếp thu, học hành rất khó khăn và thường không được đến trường.
– Rối loạn điều hòa cảm giác:
+ Trẻ bại não không bị rối loạn cảm giác nông như nóng, lạnh, đau.
+ Một số trẻ có thể bị rối loạn điều hoà cảm giác như khi ta sờ nhẹ vào má, chạm tóc búp bê… vào người trẻ khiến trẻ phản ứng dữ dội (giật thột người, co cứng toàn thân, khóc thét…).
– Liệt các dây thần kinh sọ não: lác mắt, sụp mi, mù, điếc, méo miệng…
– Các dấu hiệu khác: trẻ bại não có thể bị cong vẹo cột sống, động kinh.
– Phản xạ nguyên thuỷ bất thường: phản xạ duỗi chéo (nhấc bổng trẻ lên, quan sát thấy hai chân của trẻ duỗi cứng và bắt chéo vào nhau).
– Phản xạ nâng đỡ hữu hiệu: đặt trẻ đứng, quan sát thấy hai chân duỗi cứng,
nhón gót.
– Phản xạ mê đạo trương lực sấp: đặt trẻ nằm sấp, trẻ không nâng đầu.
3. Các biện pháp điều trị và phục hồi chức năng
Điều trị bại não cần có sự phối hợp của nhiều chuyên ngành khác nhau, cùng phối hợp với trẻ và gia đình nhằm vạch ra được một kế hoạch cụ thể thích hợp cho từng cá nhân. Điều trị bại não nhằm giúp trẻ đạt được khả năng trí tuệ cũng như vận động tối đa có thể có chứ không thể lấy lại được những khả năng đã mất để thành một đứa trẻ hoàn toàn bình thường. Các chuyên khoa liên quan bao gồm nhi khoa, phục hồi chức năng, phẫu thuật chỉnh hình, mắt, tâm thần, chỉnh âm, dạy nghề… Nếu điều trị được thực hiện sớm và có sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên ngành, đặc biệt là sự tham gia của gia đình thì kết quả rất khả quan. Các biện pháp cần được áp dụng:
3.1. Vật lí trị liệu
Trẻ thường được bắt đầu bằng vật lý trị liệu ngay sau khi được chẩn đoán. Điều trị này làm tăng kỹ năng vận động của trẻ như ngồi, đi, cải thiện cơ lực và phòng ngừa sư co kéo biến dạng cơ (cơ bị co rút có thể giới hạn vận động của các khớp).
Đôi khi trẻ cần được sử dụng các dụng cụ như nẹp, máng hoặc bó bột để ngừa co rút cơ và cải thiện chức năng của chân và tay. Nếu tình trạng co rút cơ quá nặng, trẻ cần được phẫu thuật chỉnh hình để làm dài cơ bị bệnh.
Oxy cao áp là biện pháp được khuyến cáo áp dụng cho trẻ bại não. Oxy cao áp giúp cải thiện triệu chứng vận động, ý thức trong nhiều trường hợp.
3.2. Sử dụng thuốc
Đôi khi cần dùng một số thuốc nhằm làm giảm bớt mức độ co cứng của cơ và làm giảm các cử động bất thường. Tuy nhiên các thuốc đường uống hiện nay không có tác dụng đáng kể.
Có thể tiêm trực tiếp Botox (botulinum toxin) vào các cơ co rút có thể giúp cải thiện triệu chứng, tác dụng có thể kéo dài vài tháng (trong thời gian này việc phục hồi chức năng thực hiện dễ dàng hơn).
Một loại thuốc khác cũng chứng tỏ tác dụng tốt đối với các trường hợp liệt cứng mức độ vừa đến nặng. Thuốc này có tác dụng chống co cơ có tên là baclofen. Để đưa thuốc vào bệnh nhân, người ta phải phẫu thuật để đưa vào dưới da một bơm tiêm, thông qua đó thuốc được bơm liên tục.
3.3. Phẫu thuật
Đối với một số trẻ có tình trạng co cứng hai chi dưới nặng nề, phẫu thuật cắt bỏ chọn lọc một số nhánh thần kinh ở lưng chi phối hoạt động chi có thể làm giảm vĩnh viễn tình trạng co cứng cũng như cải thiện khả năng vận động như ngồi, đứng, đi. Phẫu thuật này thường tiến hành khi trẻ được 2 đến 7 tuổi.
3.4. Phục hồi chức năng
Đây là biện pháp quan trọng nhất, giúp trẻ có thể vận động được, thực hiện được các công việc tự phục vụ. Đối với trường hợp nặng, tập luyện cho trẻ nhằm mục đích thực hiện được các thao tác quan trọng nhất trong cuộc sống hằng ngày như ăn, mặc, vệ sinh cá nhân. Những trường hợp nhẹ hơn, tập luyện và điều trị có thể hướng đến mục tiêu cao hơn như giao tiếp, vui chơi, và cả học tập nữa.
Điều quan trọng quyết định sự thành công của điều trị là vai trò của bố mẹ hoặc người chăm sóc trẻ. Nếu những đối tượng này tin tưởng, quyết tâm và có những kiến thức cơ bản cũng như kỹ năng thực hành thì đứa trẻ có nhiều khả năng đạt được những tiến bộ lớn nhằm giảm sự lệ thuộc của trẻ vào người khác, đảm bảo cho trẻ một cuộc sống gần với bình thường. Phục hồi chức năng cho trẻ bại não cần toàn diện, bao gồm các biện pháp:
– Vận động trị liệu: Sử dụng các bài tập vận động tùy theo thể bệnh để giúp trẻ giảm các mẫu vận động bất thường, tăng khả năng vận động bình thường.
– Hoạt động trị liệu: Sử dụng các bài tập hoạt động trị liệu, các trò chơi giúp trẻ có thể thực hiện được các hoạt động theo sự phát triển của lứa tuổi.
– Ngôn ngữ trị liệu: Giúp trẻ kiểm soát các cơ của lưỡi, hàm, tập phát âm được. Ngôn ngữ trị liệu cần được tiến hành trước tuổi trẻ đến trường và tiếp tục trong suốt thời gian đi học.
– Chăm sóc: Trẻ nhỏ cần có chế độ chăm sóc đặc biệt, cung cấp đủ dinh dưỡng, đủ ánh sáng, được giao tiếp với các trẻ khác và người lớn.
– Giáo dục hướng nghiệp: Đối với trẻ đã lớn, mức độ bại não nhẹ, việc giáo dục hướng nghiệp giúp cho trẻ có thể độc lập và hòa nhập với gia đình và xã hội.
4. Các biện pháp phục hồi chức năng
Nếu được điều trị, phần lớn trẻ em bại não có thể cải thiện đáng kể được những khả năng của mình. Mặc dù các triệu chứng có thể thay đổi theo thời gian nhưng theo như định nghĩa thì bại não là một căn bệnh không tiến triển, vì thế nếu người bệnh càng ngày càng yếu đi thì nguyên nhân có thể là do một vấn đề nào khác chứ không phải là do bại não.
4.1. Nguyên tắc phục hồi chức năng
– Cần phải tiến hành sớm với sự tham gia của người thân bệnh nhân để việc điều trị được liên tục.
– Có nhiều phương pháp được đề xuất, nhưng dù phương pháp nào cũng phải có một chương trình đầy đủ bào gồm: phục hồi các rối loạn vận động như làm bớt co cứng, múa vờn hay rối loạn trương lực cơ, tập luyện khả năng điều khiển tự chủ, điều trị các rối loạn thính giác, thị giác, động kinh nếu có.
– Tập luyện chức năng cho trẻ bại não có đặc điểm là trẻ chưa hề biết những động tác mà kỹ thuật viên tập cho trẻ, nên cần tiến hành theo trình tự phát triển vận động của trẻ bình thường.
4.2. Phục hồi chức năng thể co cứng
– Mục tiêu:
+ Ngăn ngừa biến dạng co rút.
+ Giảm co cứng và tập luyện cơ.
+ Tập luyện chức năng và sinh hoạt.
– Phương pháp:
+ Vận động thụ động, kéo giãn, tư thế và dụng cụ chỉnh hình như nẹp, máng, để ngăn ngừa co rút.
+ Tạo thư giãn để giảm co cứng bằng vận động thụ động nhịp nhàng chậm hoặc bằng kỹ thuật ức chế Bobath. Sau đó tập cử động điều hợp từng khớp và nhiều khớp khi đã có tiến bộ.
+ Tập luyện những chức năng của đời sống hàng ngày theo trình tự phát triển bình thường: lật, trườn, bò, quỳ, đứng và đi. Tuỳ từng trường hợp của trẻ được tập đi nạng hoặc sử dụng xe lăn. Đối với chi trên, tập các cử động đơn giản như nắm và buông trước khi tập các động tác phức tạp dùng vào việc ăn uống, tắm rửa, thay quần áo.
+ Hoạt động trị liệu dưới hình thức trò chơi được áp dụng để cải thiện chức năng của chi trên cũng như chi dưới.
4.3. Thể múa vờn
– Mục tiêu:
+ Tập luyện cử động hữa hiệu và điều hợp.
+ Tập chức năng sinh hoạt.
– Phương pháp:
+ Muốn tạo được cử động có điều hợp, bước đầu cần hạn chế cử động ở các chi và tay hay chân cử động ở một khớp mà thôi.
+ Chi trên bất động ở khớp vai và chỉ cho trẻ cử động gập duỗi khớp khuỷu. Khi đứa trẻ đã gập duỗi khớp khuỷu có điều hợp mới cho tập cử động vai.
+ Ở chi dưới, dùng nẹp chân dài để hạn chế cử động ở đầu gối và tập đi với nạng mà đầu được gắn thêm một miếng chì cho vững chắc.
4.4. Thể thất điều – mất điều hợp
Bại não thể không điều hợp thường do tổn thương tiểu não. Nguyên tắc tập luyện là kiên nhẫn lặp đi lặp lại nhiều lần những cử động thường dùng trong sinh hoạt hàng ngày cho đến khi đạt sự điều hợp.
5. Các bài tập hoạt động trị liệu
5.1. Đối với trẻ nhỏ
– Đặt đúng tư thế khi nằm: chống lại tư thế co cứng.
+ Nếu trẻ nằm hai chân duỗi chéo nhau thì có thể dùng khố đóng để tách ra hoặc cố định 2 chân.
+ Nếu trẻ thường ưỡn người ra sau, nên đặt nằm nghiêng, nằm võng hoặc trên thùng phi.
+ Nếu trẻ không ngẩng đầu hoặc nhấc tay ra được: đặt trẻ ở tư thế chống 2 tay.
+ Nằm ngửa không tốt đối với trẻ bại não.
– Tư thế khi ngồi:
+ Nếu 2 chân trẻ bắt chéo vào nhau và xoay vào trong, khớp vai sệ xuống, 2 tay xoay vào trong: đặt trẻ ngồi tách 2 chân ra, nâng 2 vai lên, xoay chân tay ra ngoài.
+ Nếu trẻ khó khăn khi ngồi: giữ 2 chân cho trẻ.
+ Trẻ có khả năng thăng bằng kém, hai chân thường bắt ngược ra sau (hình chữ W) để khỏi ngã: không nên khuyến khích trẻ ngồi kiểu hình chữ W do có thể gây biến dạng khớp háng, gối.
+ Nếu trẻ luôn dạng hai chân, mông ưỡn ra sau, khớp vai đưa ra sau, đầu tiên cần đặt trẻ ngồi sao cho thân ở tư thế gập về phía trước, 2 chân chụm vào nhau rồi đưa 2 vai ra trước và xoay vào trong. Sau đó, cùng chơi với trẻ trên bàn, ngồi đối diện với trẻ để trẻ phải với tay ra phía trước lấy đồ chơi. Chú ý đảm bảo để hai bàn chân đặt trên mặt phẳng.
+ Trẻ nhỏ không đặt một vị trí quá 20 phút.
– Cách bế ẵm trẻ:
+ Nếu trẻ thường nằm với tư thế 2 tay co, 2 chân duỗi thì bế sao cho 2 tay duỗi thẳng, 2 gối và háng gập .
+ Nếu trẻ có khả năng kiểm soát tốt hơn thì có thể bế ở tư thế ít cần trợ giúp
– Lẫy và xoay người:
+ Nếu trẻ bị co cứng, phải làm giảm cứng bằng cách đẩy chân trẻ ra sau và ra trước, sau đó giúp trẻ tập xoay người và lẫy.
+ Tìm trò chơi sao cho trẻ muốn xoay người và tự xoay người.
– Vui chơi:
+ Để phát triển nhận thức và vận động.
+ Tăng khả năng tập trung và trí nhớ.
+ Lựa chọn trò chơi phù hợp theo tuổi.
+ Chơi bóng.
+ Âm nhạc.
+ Ghép hình.
– Ăn uống: tập kiểm soát ăn uống.
– Mặc quần áo:
+ Tập mặc quần áo cho trẻ co cứng.
+ Tập mặc quần áo cho trẻ múa vờn.
+ Mặc quần áo cho trẻ thăng bằng kém.
5.2. Đối với trẻ lớn
– Lượng giá lao động trong tương lai.
– Đối với trẻ liệt bán thân: tập tốt bên liệt.
– Đối với trẻ múa vờn: dùng sự đề kháng để kiểm soát cử động.
5.3. Một số bài tập phục hồi chức năng vận động
5.3.1. Tạo thuận vận động các khớp ở tư thế nằm ngửa
– Đặt trẻ nằm ngửa: đầu, thân mình, chân tay thẳng.
– Chi dưới:
+ 1 tay kỹ thuật viên (KTV) cố định 1 chân trẻ, 1 tay cầm chân còn lại của trẻ. Thực hiện kết hợp động tác: gập – dang – xoay ngoài khớp háng.
+ Thực hiện với chân còn lại.
+ Tập gập duỗi cổ chân từng bên (kéo gân gót).
Chú ý đối với chi dưới:
+ Thực hiện từng chân. Luôn đảm bảo cố định chân còn lại để tránh gây trật khớp háng.
+ KTV cầm dưới khớp gối của trẻ để thực hiện cử động gập – dạng.
+ Kéo gân gót: KTV dùng bàn tay ôm xuống phần gót chân trẻ, tránh cầm bàn chân của trẻ thực hiện cử động.
– Chi trên:
+ Gập duỗi khớp vai: 1 tay đặt khớp vai trẻ, 1 tay cầm khuỷu tay trẻ (thẳng khuỷu), thực hiện cử động gập duỗi khớp vai.
+ Dạng – áp khớp vai: thực hiện dạng – áp – kéo thẳng khớp vai rồi đưa về vị trí ban đầu theo hướng ngược lại.
+ Gập – duỗi khuỷu: 1 tay cố định dưới khớp khuỷu, 1 tay cầm cổ tay trẻ thực hiện động tác gập duỗi khuỷu.
+ Quay sấp, quay ngửa cẳng tay: 1 tay cố định dưới khớp khuỷu, 1 tay cầm cổ tay trẻ thực hiện động tác quay sấp, quay ngửa cẳng tay.
+ Gập duỗi khớp cổ tay: 1 tay KTV cố định cổ tay trẻ, 1 tay cầm bàn tay trẻ (xòe các ngón và ngón cái), thực hiện gập duỗi cổ tay.
5.3.2. Tăng kiểm soát đầu cổ, tập mạnh cơ duỗi lưng với gối tam giác
Áp dụng với trẻ kiểm soát đầu cổ, thân mình yếu. Tư thế trẻ: nằm sấp trên gối tam giác.
– Xoa bóp, day cơ lưng.
– KTV dùng 2 ngón tay day dọc 2 cơ cạnh sống từ S1 – C7.
– Người nhà dùng đồ chơi (vật dụng có âm thanh) kích thích trẻ ngóc đầu lên.
5.3.3. Tập lẫy
– Tư thế: Đặt trẻ nằm ngửa, đầu – thân mình – chân tay thẳng.
– Lật từ nằm ngửa – nằm sấp:
+ 1 tay KTV cố định 1 chân trẻ, 1 tay gập chân còn lại và bắt chéo qua người trẻ, giúp trẻ chuyển sang tư thế nằm nghiêng.
+ KTV đưa tay dưới sàn (nệm, giường) của trẻ thẳng trên phía đầu (gập khớp vai). Chú ý không để tay trẻ trong tư thế gập 90, duỗi vai (gây đau và trật khớp vai khi trẻ lật sang bên).
+ 1 tay KTV cầm chân trẻ, 1 tay đẩy mông trẻ (hoặc kích thích thân mình trẻ), trẻ sẽ từ từ lật người xuống.
+ Đảm bảo khi đứa trẻ lật sấp trong tư thế 2 khuỷu tay gập và chống về phía trước. Có thể kích thích cho trẻ ngẩng đầu bằng day cơ cổ hoặc đồ chơi.
– Lật nằm sấp – nằm ngửa:
+ Muốn lật sang bên phải, chú ý tay phải của trẻ phải trong tư thế gập khớp vai (duỗi thẳng lên trên).
+ 1 tay KTV gập khớp hông chân trái từ từ đưa về phía bụng của trẻ, 1 tay kết hợp gập đẩy khớp vai của trẻ hoặc giữ ở mông trẻ và đẩy người trẻ nằm ngửa.
– Lật luân phiên sang 2 bên.
5.3.4. Kiểm soát trẻ ở tư thế ngồi, tập thăng bằng ngồi cho trẻ
– Đặt trẻ ngồi với 2 chân duỗi thẳng, lưng tạo với thân mình 1 góc 80 – 90 độ (tránh để trẻ gập quá hay duỗi quá).
– Với trẻ 2 chân co cứng, khép và gập gối chặt, KTV vòng tay qua nách trẻ giữ khớp gối của trẻ trong tư thế duỗi và xoay ngoài, cánh tay KTV dùng để giữ thân mình trẻ và chỉnh cho trẻ không bị nghiêng người sang 1 bên quá mức.
– Với trẻ 2 chân co cứng ít hơn, KTV có thể dùng bàn chân của mình giữ cho chân trẻ trong tư thế duỗi và xoay ngoài:
+ Dùng 2 tay để giữ đầu trẻ trong trường hợp kiểm soát đầu cổ còn kém (tránh để trẻ gập đầu đột ngột vì đốt sống của trẻ còn rất yếu).
+ Trong trường hợp đôi khi trẻ gục đầu xuống không phối hợp, cầm 2 tay của trẻ (khớp vai) đẩy lên (giúp đẩy đầu của trẻ hướng lên trên).
+ Trẻ kiểm soát đầu cổ tốt hơn, tập thăng bằng cho trẻ ở tư thế ngồi (đẩy người sang bên, ra trước, sau…).
– Lưu ý: Mỗi trẻ tùy theo giai đoạn phát triển, mức độ mà có các bài tập khác nhau cũng như phương pháp tập khác nhau. Các bài tập của ADMIN chỉ mang tính chất chia sẻ, rất mong nhận được đóng góp của anh chị em KTV.
5.3.5. Tập trườn
– Đặt trẻ nằm sấp, 2 tay ở phía trước.
– 1 tay KTV gập 1 bên chân trẻ, 1 tay cầm khoeo chân còn lại.
– Đồng thời kích thích gan bàn chân của trẻ và tay còn lại đẩy chân trẻ lên phía trước.
– Đổi với chân còn lại.
– Lưu ý:
+ 2 tay của trẻ luôn ở tư thế gập về phía trước (khuỷu gập), người nhà có thể trợ giúp đưa tay của trẻ lên trước trong trường hợp trẻ đưa tay xuống.
+ Khi trẻ ngóc đầu lên mới kích thích và đẩy chân trẻ.
5.3.6. Tạo thuận nâng đầu ở tư thế nằm sấp
– Chỉ định: trẻ bại não giữ đầu cổ kém.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp trên giường hoặc trên đùi KTV, hai tay trẻ chống xuống giường. Hai tay KTV đặt trên hai vai trẻ và đẩy nhẹ nhàng về phía sau.
– Kết quả mong muốn: trẻ dền trọng lượng lên hai tay ở tư thế gập và duỗi khuỷu để nâng đầu lên.
5.3.7. Tạo thuận nâng đầu ở tư thế nằm sấp trên gối tròn
– Chỉ định: trẻ bại não giữ đầu cổ kém.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp trên gối tròn (chăn cuộn tròn), hai tay chống xuống giường. Hai tay KTV đặt trên hai vai trẻ ấn mạnh xuống. Di chuyển người trẻ về phía trước-sau trong lýc trẻ chống hai tay xuống giường, chống 1 tay và tay kia với đồ vật.
– Kết quả mong muốn: trẻ dồn trọng lượng lên hai tay đang duỗi thẳng, bàn tay xòe, nâng đầu lên.
5.3.8. Tạo thuận nâng đầu bằng tay
– Chỉ định: trẻ bại não giữ đầu cổ kém.
– Kỹ thuật: Đặt trẻ nằm sấp ở tư thế hông gập gối gập. Một tay KTV cố định trên mông trẻ, tay kua dùng ngón trỏ và ngón giữa ấn day mạnh dọc thei hai bên đốt sống từ cổ xuống thắt lưng.
– Kết quả mong muốn: trẻ nâng đầu và duỗi thẳng thân mình.
5.3.9. Tạo thuận nâng đầu ở tư thế nằm sấp trên bàn nghiêng
– Chỉ định: trẻ bại não giữ đầu cổ kém.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp trên bàn nghiêng, hai tay chống xuống sàn. Đặt vài đồ chơi phía trước. Bảo trẻ giơ một tay với đồ chơi.
– Kết quả mong muốn: trẻ dồn trọng lượng lên hai khuỷu tay nâng đầu lên, lấy được đồ chơi bằng 1 tay trong khi tay kia vẫn chếng xuống sàn.
5.3.10. Tập 2 chân ở tư thế nằm nghiêng có gối chèn giữa
– Mục tiêu: Giúp trẻ nằm nghiêng tách 2 chân.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm nghiêng châ dưới duỗi, chân trên gác lên gối tròn chèn giữa 2 chân, hai tay trẻ đưa ra phía trước.
– Kết quả mong muốn (KQMM): Trẻ nằm thoải mái, thư giãn, 2 chân tách rời.
5.3.11. Tập nâng đầu ở tư thế nằm sấp, dồn trọng lượng lên hai tay có sức đề kháng
– Mục tiêu: giúp trẻ có khả năng dồn trọng lượng lên hai tay để làm khỏe cơ duỗi cổ, thân mình và kiểm soát đầu cổ tốt hơn.
– Kỹ thuật: kỹ thuật viên ngồi trên sàn. Đặt trẻ nằm sấp trên đùi sao cho hai tay trẻ chống xuống sàn, hai tay kỹ thuật viên đặt trên hai vai trẻ và ấn mạnh xuống vai trẻ, sau đó bỏ tay ra, làm như vậy vài lần.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể dồn trọng lượng lên hai tay ở tư thế duỗi.
5.3.12. Tập nâng đầu ở tư thế nằm sấp có sức đề kháng trên đầu
– Mục tiêu: giúp trẻ nâng đầu ở tư thế nằm sấp.
– Kỹ thuật: Kỹ thuật viên ngồi trên sàn. Đặt trẻ nằm sấp trên đùi, hai tay trẻ chống xuống sàn, một tay kỹ thuật viên cố định trên vai trẻ, tay kia đặt trên đầu trẻ, ấn mạnh vào đầu trẻ rồi lại bỏ tay ra. Làm như vậy vài lần.
– Kết quả mong muốn: trẻ có khả năng giữ đầu thẳng với thân mình trong khi nằm sấp.
5.3.13. Tập nâng đầu ở tư thế nằm sấp di chuyển về phía trước trên gối tròn
– Mục tiêu: tăng khả năng dồn trọng lượng lên 2 tay ở tư thế duỗi chống đỡ về phía trước.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp trên gối tròn với 2 tay chống xuống sàn, hai tay kỹ thuật viên giữ đùi, dạng 2 chân trẻ sao cho khớp gối ở tư thế duỗi và chân xoay ngoài, đẩy người trẻ về phía trước để trọng lượng dồn vào 2 tay.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể dồn trọng lượng lên 2 tay ở tư thế duỗi khuỷu, bàn tay xòe và đầu nâng lên.
5.3.14. Tập nâng đầu bằng hai tay
– Mục tiêu: làm khỏe nhóm cơ duỗi cổ và thân mình ở tư thế gập háng và gối.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp ở tư thế gập tại khớp háng và gối, một tay kỹ thuật viên cố định trên mông trẻ, tay kia dùng ngón trỏ và ngón giữa ấn day mạnh dọc theo hai bên gai ngang từ các đốt sống cổ xuống cùng cụt.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể nâng đầu và duỗi thẳng thân minh…
5.3.15. Tạo thuận lẫy
– Mục tiêu: giúp trẻ lật ngửa sang sấp.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm ngửa chân duỗi, gập 1 chân trẻ và nhẹ nhàng đưa chéo qua người trẻ. Khi trẻ đã nằm nghiêng, kỹ thuật viên từ từ đẩy thân mình trẻ sang bên đó và đợi trẻ tự lật nghiêng người. Chú ý thực hiện kỹ thuật từ từ để trẻ có thể tham gia vào động tác lật người.
– Kết quảmong muốn: trẻ có thể phối hợp lật nghiêng người từ nằm ngửa sang sấp.
5.3.16. Tập phản xạ chống đỡ bằng 2 tay ở tư thế nằm sấp trên gối tròn
– Mục tiêu: tăng khả năng chống đỡ bằng hai tay.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp trên gối tròn, 2 tay chống xuống sàn, trợ giúp tại háng trẻ nếu cần, từ từ lăn gối tròn sang 2 bên.
– Kết quả mong muốn: Trẻ dùng tay chống đỡ ở cuối động tác lăn.
5.3.17. Tập điều chỉnh tư thế bất thường ở 2 chân trẻ bại não thể co cứng
– Mục tiêu: giúp trẻ dạng khớp háng, duỗi khớp gối, gập mu hai bàn chân (phá vỡ phản xạ duỗi chéo).
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm ngửa, Kỹ thuật viên dùng 2 tay cố định khớp gối, từ từ xoay ngoài khớp háng, dạng háng và tách 2 chân trẻ ra.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể dạng háng, duỗi gối và xoay ngoài cẳng chân
5.3.18. Tập điều chỉnh tư thế bất thường ở 2 tay trẻ bại não thể co cứng
– Mục tiêu: giúp trẻ đưa tay ra phía trước, duỗi khuỷu tay và ngửa cẳng tay.
– Kỹ thuật: đặt trẻ ngồi, kỹ thuật viên dùng 2 tay cố định dưới khớp khuỷu. Từ từ đưa tay trẻ lên ra trước về vị trí gập vai 90 độ và xoay ngoài khớp vai rồi kéo về phía trước mặt trẻ.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể đưa 2 tay ra trước, duỗi khuỷu tay và ngửa cẳng tay, gập mu bàn tay trong khi đàu giữ vững ở vị trí trung gian.
5.3.19. Tập ngồi dậy ở tư thế nằm sấp trên đùi
– Mục tiêu: giúp trẻ học cách ngồi dậy ở tư thế nằm sấp. Kích thích nâng đầu cổ và xoay thân mình.
– Kỹ thuật: đặt trẻ nằm sấp vắt qua đùi kỹ thuật viên. Một tay kỹ thuật viên cố định vào dưới háng trẻ, tay kia cố định vào dưới nách trẻ, từ từ xoay nghiêng người trẻ và đồng thời nâng người trẻ lên ra trước về tư thế ngồi.
– Kết quả muốnmong: trẻ có thể ngồi dậy bằng cách nâng đầu cổ lên và ra sau đó xoay đầu, thân mình về hướng ta muốn trẻ ngồi dậy.
5.3.20. Tập bò trên đùi
– Mục tiêu: Tăng khả năng giữ thăng bằng ở tư thế bò.
– Kỹ thuật: Đặt trẻ quỳ trên đùi kỹ thuật viên, chân dưới gập, chân trên duỗi thẳng. Kỹ thuật viên dùng một tay cố định trên mông trẻ, tay kia giữ bàn chân trẻ, đẩy nhẹ vào gót chân trẻ về phía trước và hỗ trợ nâng thân trẻ bằng đùi kỹ thuật viên khi trẻ bò.
– Kết quả mong muốn: trẻ có thể giữ thăng bằng trên chân kỹ thuật viên, thân mình thẳng.
5.3.21. Tập ngồi xổm
– Mục tiêu: tăng khả năng duy trì thăng bằng ở tư thế ngồi xổm.
– Kỹ thuật: đặt trẻ ngồi xổm. Kỹ thuật viên quỳ phía sau trẻ dung hai tay cố định hai gối trẻ, dồn trọng lượng của trẻ lên hai bàn chân. Khuyến khích trẻ chơi ở tư thế ngồi xổm.
– Kết quả mong muốn: trẻ có khả năng giữ thăng bằng thân mình ở tư thế ngồi xổm trong vài phút.
5.3.22. Tập thăng bằng có trợ giúp ở tư thế quỳ trên hai gối
– Mục tiêu: tăng khả năng giữ thăng bằng ở tư thế quỳ hai điểm.
– Kỹ thuật: đặt trẻ quỳ trên hai gối. Kỹ thuật viên quỳ phía sau trẻ và dùng hai tay giữ ở hai bên hông trẻ, đẩy nhẹ nhàng tay về phía trước, cho phép trẻ lấy lại thăng bằng, kéo trẻ nhẹ nhàng ra phía sau để lấy lại thăng bằng.
– Kết quả mong muốn: trẻ có khả năng giữ thăng bằng thân mình khi quỳ hai điểm.
5.3.23. Tập thăng bằng ở tư thế quỳ một chân
– Mục tiêu: tăng khả năng giữ thăng bằng ở tư thế quỳ một chân.
– Kỹ thuật: đặt trẻ quỳ trên một gối, người đổ nhẹ ra sau và sang trái để giữ cho chân phải đưa ra trước, khuyến khích trẻ với tay ra phía trước và hai bên để lấy đồ chơi. Kỹ thuật viên quỳ phía sau trẻ và dùng hai tay giữ nhẹ hai bên hông trẻ để cố định khi cần giúp trẻ giữ thăng bằng.
– Kết quả mong muốn: trẻ có khả năng giữ thăng bằng ở tư thế quỳ một chân trong lúc chơi.
5.3.24. Tập thăng bằng đứng trên bàn thăng bằng
– Mục tiêu: tăng khả năng thăng bằng ở tư thế đứng.
– Kỹ thuật: đặt trẻ đứng trên bàn thăng bằng với hai chân để rộng hơn vai. Nghiêng nhẹ bàn thăng bằng và đợi trẻ lấy thăng bằng khi bàn nghiêng di chuyển. Kỹ thuật viên trợ giúp hai bên hông khi cần.
– Kết quả mong muốn: trẻ có khả năng giữ thăng bằng ở tư thế đứng khi bàn nghiêng di chuyển.
5.3.25. Tập đi trong thanh song song
– Mục tiêu: tăng khả năng đi.
– Kỹ thuật: đặt trẻ đứng bám vào hai thanh song song với hai chân để rộng hơn vai. Yêu cầu trẻ co một chân lên để trọng ượng dồn lên chân kia khi bước đi. NT trợ giúp hai bên hông khi cần.
5.4. Một số bài tập phục hồi chức năng ngôn ngữ cho trẻ bại não
Để giúp cho trẻ gia tăng kỹ năng giao tiếp và phát triển ngôn ngữ, cha mẹ trẻ nên thực hiện một số phương pháp khuyến khích lời nói cho trẻ, các phương pháp này nên được xây dựng thành thói quen hàng ngày và được thực hiện khi mặc quần áo cho trẻ, ăn uống, vui chơi, đi tắm, trước khi đi ngủ… Sau đây là một số phương pháp nhằm cung cấp cho cha mẹ trẻ để phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
5.4.1. Làm mẫu
Đây là phương pháp đầu tiên và quan trọng nhất, đây là mẫu lời nói rất tốt cho trẻ. Trẻ cần nghe rồi bắt chước lời nói của bạn, vì vậy bạn cần nói với trẻ những gì bạn làm trong khi bạn chơi với trẻ hay trong những sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ: “Con đang chải đầu“, mẹ đang nấu cơm cho con”. Hầu hết trẻ chưa thể phát âm chính xác nhiều từ cùng lúc vì vậy trẻ cố gắng nói được một từ nào đó cũng là rất tốt. Bạn nên nói chính xác để trẻ bắt chước đúng và bạn không nên nói giọng trẻ con, giọng nũng nịu với trẻ.
5.4.2. Mở rộng
Khi trẻ gọi tên hay nói một từ đơn, bạn nên mở rộng từ đó thành một câu. Ví dụ: trẻ nói “chó” thì bạn nói “chó đang chạy”, trẻ nói “đi” thì bạn nói “con muốn đi chơi”.
5.4.3. Bắt chước
Trẻ nhỏ rất thích bắt chước, bạn nên bắt đầu bằng cách bắt chước cái gì mà trẻ đã làm được, nhất là điều gì vui nhộn, ví dụ như bắt chước mặt hề hay một âm thanh khác thường. Bạn nên kết hợp cử chỉ bắt chước trong các bài hát. Ví dụ: bài hát “một con vịt xòe ra 2 cái cánh ..” hoặc bắt chước tiếng kêu thú vật (mèo kêu “ meo…meo..”, chó sủa “gâu… gâu..” )
5.4.4. Lựa chọn
Bạn nên cho trẻ sự lựa chọn trong bữa ăn và trong khi chơi để khuyên khích trẻ sử dụng cử chỉ hay phát âm để thể hiện nhu cầu hay mong muốn của trẻ. Ví dụ, nếu trẻ em chỉ tay về phía tủ lạnh khi trẻ đói, bạn nên cho trẻ sự lựa chọn bằng cách bạn cầm ly của trẻ lên, rồi chỉ vào sữa và nước cam, bạn hỏi “ con đói à ?” “con muốn sữa hay nước cam”.
5.4.5. Nhắc nhở
Bạn có thể nhắc nhở bằng cách sử dụng âm thanh, cử chỉ hoặc lựa chọn. Ví dụ, nếu bạn muốn trẻ nói “nữa”, đầu tiên bạn nên hướng dẫn cho trẻ dấu hiệu để nói về từ “nữa” như một lời nhắc nhở, bạn cũng có thể nhắc nhở bằng cách nói một âm thanh ban đầu của một từ để nhắc nhở trẻ. Ví dụ, nếu bạn đã nghe trẻ nói “sữa”, bạn có thể nói “Ssssss” như một lời nhắc.
5.4.6. Nói song song
Khi bạn đang chơi với trẻ hoặc trẻ đang ăn, tắm rửa…, bạn nên nói chuyện với trẻ về những gì trẻ làm. Ví dụ, “Con đang xây tòa lâu đài lớn. Con chồng 5 khối lên nhau” hay “con đang ăn chuối, chuối ngon quá”.
5.4.7. Chờ đợi – giữ lại
Phương pháp này tốt nhất khi bạn biết trẻ đã biết một từ nào đó nhưng không chịu nói ra. Trước tiên, bạn cho trẻ có thời gian để trả lời trước khi bạn đưa trẻ đồ chơi hay thức ăn trẻ muốn, có thể trẻ chỉ cần thêm thời gian để trả lời hoặc bạn có thể giữ vật lại, không đưa cho trẻ vật trẻ thich và chờ đến khi trẻ trả lời bằng lời nói hay cử chỉ.
5.4.8. Ngôn ngữ kí hiệu
Khi nói trẻ có thể kết hợp với cử chỉ để diễn tả, các dấu hiệu có thể giúp giảm bớt sự thất vọng của trẻ và cho trẻ một cách để đạt được điều trẻ mong muốn .
5.4.9. Giao tiếp bằng hình ảnh
Bạn có thể sử dụng hình ảnh của đồ vật và các hoạt động để trẻ có thể chỉ vào những điều trẻ muốn. Ví dụ, bạn có thể làm một quyển sổ giao tiếp, trong đó là những hình chụp các hoạt động hàng ngày (hình đánh răng, rửa mặt, đi học …) hoặc các hình ảnh thực phẩm được cắt từ tạp chí…, bạn dán băng dính phía sau hình ảnh vào trong sổ giao tiếp. Khi trẻ có nhu cầu gì, trẻ sẽ lấy hình ảnh từ trong sổ giao tiếp trao cho bạn.
5.4.10. Đặt câu hỏi
Bạn nên hỏi những câu hỏi mở, không nên hỏi câu hỏi dạng “ Có/không”. Câu hỏi mở được sử dụng để bắt đầu một cuộc trò chuyện với trẻ. Ví dụ “Ba ở đâu ?” hay “Trưa nay con muốn ăn ?” … Nếu trẻ không trả lời, bạn có thể trả lời cho trẻ “Ba đi làm” hoặc “Trưa nay con ăn thịt bò”.
5.4.11. Tính mới lạ
Bạn làm cái gì đó lạ, bất ngờ trong trò chơi hay trong thói quen hàng ngày của trẻ để trẻ phản ứng, trả lời. Ví dụ, khi đánh răng, bạn trao cho trẻ cái lược và chờ xem trẻ phản ứng ra sao, nếu trẻ không phản ứng, bạn sẽ nói với trẻ “chúng ta không dùng lược để đánh răng hay chúng ta dùng bàn chải đánh răng để đánh răng”.
5.4.12. Giả vờ quên
Bạn giả bộ không nhớ điều gì đó nhằm tạo cơ hội cho trẻ nhớ điều đó và bày tỏ ý kiến. Ví dụ, nếu con bạn muốn uống sữa, bạn đặt ly của trẻ trên bàn và đặt sữa trong tầm tay, nhưng bạn không đổ sữa. Hoặc khi bạn hát một bài hát “ba thương con vì con giống…..”và bạn quên nói từ “mẹ”, trẻ sẽ cố gắng để nói điền vào từ “mẹ” mà bạn quên .
5.4.13. Nói một mình
Bạn nên thường xuyên thực hiện phương pháp này, bạn nói về mọi việc bạn đang làm. Ví dụ, “Mẹ đang giặt quần áo cho con”, “Mẹ đang rửa rau, mẹ đang làm rau trộn cho con “.
5.4.14. Diễn giải
Bạn nên sử dụng ngôn ngữ đơn giản để yêu cầu với trẻ nhỏ, không nên giải thích dài dòng, khó hiểu. Ví dụ, bạn chỉ nói đơn giản “con mặc áo ấm vào” thay vì nói “Con mặc áo ấm vào vì ngoài đường rất lạnh và chúng ta sẽ đi đến nhà bà ngoại”.
6. Dự phòng
Hiện nay y học vẫn chưa hiểu hết các nguyên nhân gây bại não do đó việc phòng ngừa không đạt hiệu quả như mong muốn.
6.1. Chăm sóc thai sản
Nâng cao chất lượng chăm sóc phụ nữ trong tuổi sinh đẻ và phụ nữ có thai nhằm giảm thiểu những biến chứng của thai kỳ. Phân tuyến để điều trị sản khoa hợp lý nhằm giảm thiểu các biến chứng do sinh đẻ như ngạt, chấn thương… Có trung tâm chăm sóc sơ sinh phù hợp.
6.2. Tiêm phòng
Tiêm phòng các bệnh như viêm màng não mủ, viêm não…
6.3. Phòng ngừa tai nạn
Phòng chống tai nạn giao thông cũng như các tai nạn khác (ngạt nước…)
6.4. Phòng ngừa thứ phát
Là phát hiện sớm và điều trị trẻ bị bại não nhằm hạn chế tật nguyền.
Nguồn: PGS Hà Hoàng Kiệm
Để lại một phản hồi